Xác định thời điểm bắt đầu chấp hành án khi tổng hợp hình phạt tù đối với người đang chấp hành án phạt tù chung thân – một số hạn chế, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị

Tổng hợp hình phạt là hoạt động riêng biệt của Tòa án, thực hiện với trường hợp người bị kết án phạm nhiều tội trong một bản án hoặc người chưa chấp hành xong một bản án mà lại bị xét xử một tội phạm khác xảy ra trước hoặc sau khi có bản án đó. Trong bài viết dưới đây, tác giả chỉ bàn về việc khi tổng hợp hình phạt của người bị kết án tù chung thân về một tội phạm, trong quá trình chấp hành án lại bị kết án phạt tù về một tội phạm khác xảy ra sau khi có bản án tuyên phạt tù chung thân, thì phải xác định thời điểm bắt đầu chấp hành án phạt tù là khi nào. Bởi vì, giữa quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, năm 2025 (sau đây gọi tắt là BLHS), các văn bản hướng dẫn và thực tiễn áp dụng vẫn có sự bất cập dẫn đến việc xem xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù lần đầu với người chấp hành án còn gặp nhiều khó khăn

Xác định thời điểm bắt đầu chấp hành án khi tổng hợp hình phạt tù đối với người đang chấp hành án phạt tù chung thân – một số hạn chế, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị

Nguyễn Hồng Thắm (Phòng KTNV và Thi hành án – TAND tỉnh Khánh Hòa)

Nguồn: Báo Thanh niên

1. Quy định của pháp luật

Theo quy định tại Điều 39 BLHS thì: Tù chung thân là hình phạt tù không thời hạn được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, nhưng chưa đến mức bị xử phạt tử hình. Khi thực hiện việc tổng hợp hình phạt, nếu hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên là tù chung thân thì hình phạt chung là tù chung thân.

Khác với việc tổng hợp hình phạt khi phạm nhiều tội khi xét xử cùng một lần, việc tổng hợp hình phạt khi phạm nhiều tội được thực hiện khi người bị kết án đã thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác nhau, các hành vi đó đã được xét xử ở những thời điểm khác nhau và hình phạt đã được tuyên ở các bản án khác nhau. Hành vi phạm tội có thể xảy ra và được xét xử ở thời điểm trước hoặc sau bản án người đó đang chấp hành. Do đó, về nguyên tắc và cách thức thực hiện có sự khác biệt so với tổng hợp hình phạt của nhiều tội vì tổng hợp hình phạt của bản án thường có khoảng cách về thời gian, ở nhiều địa phương khác nhau, ở nhiều cấp Tòa khác nhau, giữa các bản án đã có hiệu lực pháp luật chưa chấp hành hoặc đang chấp hành. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án theo quy định tại Điều 56 BLHS, gồm có những trường hợp sau:

Thứ nhất: Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này. Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

Thứ hai: Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

Thông qua công thức tổng hợp nêu trên, chúng ta thấy rằng, thời điểm thực hiện hành vi phạm tội dẫn đến thời điểm bị truy tố, xét xử đối với người chấp hành án có những ảnh hưởng nhất định đến trách nhiệm hình sự của người bị kết án. Trong trường hợp người đang chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về một hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi có bản án này sẽ có lợi hơn so với trường hợp thứ hai. Bởi lẽ, trường hợp này Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử rồi tổng hợp hình phạt chung trên cơ sở hình phạt của hai bản án mà theo quy định tại Điều 55 BLHS thì hình phạt chung không được quá 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn, sau khi cộng để tổng hợp theo quy định của Điều 55 BLHS rồi mới trừ đi phần hình phạt đã chấp hành của bản án trước để tính thời hạn còn lại của hình phạt chung. Đối với trường hợp thứ hai, người bị kết án sẽ gặp bất lợi hơn vì sau khi trừ đi phần hình phạt đã chấp hành của bản án trước, Tòa án mới tổng hợp hình phạt chung giữa hai bản án theo quy định tại Điều 55 BLHS – hình phạt chung không được vượt quá 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn. Như vậy, nếu đang chấp hành một bản án mà người bị kết án lại có hành vi phạm tội mới phải chịu chế tài hình sự nghiêm khắc hơn so với hành vi phạm tội thực hiện trước khi có bản án đang chấp hành.

Điều 56 BLHS cũng quy định về thẩm quyền tiến hành tổng hợp hình phạt. Theo đó, trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 55 Bộ luật Hình sự. Tại Mục 3 Phần II của Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 02/8/2021 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền này như sau:

Thứ nhất: Các bản án đã có hiệu lực pháp luật của cùng một Tòa án thì Chánh án Tòa án đó ra quyết định tổng hợp hình phạt.

Thứ hai: Các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án khác nhau nhưng cùng cấp (cùng cấp huyện trong cùng một tỉnh hoặc khác tỉnh; cùng cấp khu vực trong cùng một quân khu hoặc khác quân khu; cùng sơ thẩm cấp tỉnh, cùng cấp quân khu, cùng phúc thẩm ở Tòa án nhân dân cấp cao), thì Chánh án Tòa án ra bản án sau cùng (về mặt thời gian) ra quyết định tổng hợp hình phạt.

Thứ ba: Các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án không cùng cấp thì Chánh án Tòa án cấp cao hơn đã có bản án có hiệu lực pháp luật ra quyết định tổng hợp hình phạt, không phụ thuộc vào việc bản án của Tòa án cấp cao hơn có trước hay có sau.

Thứ tư: Trường hợp trong số các bản án đã có hiệu lực pháp luật, có bản án của Tòa án nhân dân, có bản án của Tòa án quân sự, thì việc tổng hợp hình phạt được thực hiện tương tự như trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án khác nhau nhưng cùng cấp và trường hợp các bản án đã có hiệu lực pháp luật là của các Tòa án không cùng cấp như trên.

Hướng dẫn tại Công văn số 02 này về cơ bản là phù hợp với thực tiễn xét xử, thi hành án và phù hợp với nội dung đã được nêu tại Thông tư số 02/TTLN ngày 20/12/1991 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự.

2. Một số tồn tại, hạn chế

Mặc dù quy định pháp luật đã minh bạch, cụ thể nhưng thực tiễn xác định thời điểm bắt đầu chấp hành án khi tổng hợp hình phạt tù đối với người đang chấp hành án phạt tù chung thân vẫn có những vướng mắc. Tác giả xin nêu một tình huống pháp lý cụ thể sau đây:

Ngày 27/10/1997, Nguyễn V có hành vi dùng dao nhọn đâm vào ngực anh P làm anh P tử vong tại chỗ rồi bỏ trốn. Ngày 06/12/2006, Nguyễn V bị Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội xử phạt tù chung thân, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/5/2006.

Ngày 28/4/2011, khi đang chấp hành án phạt hình phạt tù chung thân tại Trại giam X – Bộ Công an, Nguyễn V bị bắt quả tang tàng trữ 0.2815 gam chất ma túy Heroin. Ngày 16/8/2011, Nguyễn V bị TAND tỉnh T xử phạt 3 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp với hình phạt tù chung thân tại bản án ngày 06/12/2006 của Tòa Phúc thẩm TAND tối cao tại Hà Nội, buộc Nguyễn V chấp hành hình phạt chung là tù chung thân. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là ngày 28/4/2011.

Như vậy, việc TAND tỉnh T xử phạt Nguyễn V đối với hành vi phạm tội sau đó tổng hợp với hình phạt đang chấp hành là đúng với quy định tại khoản 2 Điều 56 BLHS (Điều 51 BLHS năm 1999). Tuy nhiên, thời điểm tính thời hạn chấp hành án phạt tù đối với Nguyễn V còn có nhiều tranh cãi.

Quan điểm thứ nhất: Việc TAND tỉnh T tính thời hạn chấp hành án phạt tù của Nguyễn V từ ngày bắt tạm giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (ngày 28/4/2011) là có căn cứ. Bởi lẽ, tù chung thân là hình phạt tù không có thời hạn nên không cần xác định thời điểm bắt đầu chấp hành án.

Quan điểm thứ hai và cũng là quan điểm của tác giả: Việc TAND tỉnh T tính thời hạn chấp hành án phạt tù của Nguyễn V từ ngày bắt tạm giam về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (ngày 28/4/2011) là không có căn cứ mà phải xác định thời hạn bắt đầu chấp hành án phạt tù tính từ ngày 15/5/2006. Bởi lẽ, theo quy định tại khoản 2 Điều 56 BLHS thì khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này. Việc xác định thời hạn chấp hành án phạt tù bắt đầu từ ngày 15/5/2006 cũng có ý nghĩa ghi nhận thời gian đã chấp hành của người bị kết án khi xem xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Giả sử trong trường hợp đến năm 2024, Nguyễn V được đề nghị xem xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù lần đầu (từ chung thân giảm xuống 30 năm tù), thì thời gian tính từ ngày 15/5/2006 đến ngày 30/4/2024 là đã đủ điều kiện “Trường hợp người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì Tòa án chỉ xét giảm lần đầu xuống 30 năm tù sau khi đã chấp hành được 15 năm tù”. Nếu xác định thời hạn chấp hành án phạt tù của Nguyễn V từ ngày 28/4/2011 thì sẽ không thỏa mãn điều kiện về thời gian đã chấp hành án được 15 năm tù để được xem xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù. Cũng có ý kiến cho rằng do hành vi phạm tội của Nguyễn V là trước ngày 01/01/2018 nên chỉ cần áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 58 BLHS năm 1999, điểm a khoản 1 Điều 6 Thông tư liên tịch số 03/2013/TTLT-BCA-BQP-TANDTC-VKSNDTC ngày 15/5/2013 hướng dẫn thi hành các quy định về giảm thời hạn chấp hành án phạt tù đối với phạm nhân: thời hạn tù Nguyễn V đã chấp hành 12 năm tù là đã có cơ sở để xem xét.

Hơn nữa, trong trường hợp xác định thời hạn chấp hành án hình phạt tù của Nguyễn V từ ngày 28/4/2011, thì trong trường hợp Tòa án chấp nhận giảm thời hạn chấp hành án phạt tù cho Nguyễn V từ tù chung thân xuống 30 năm tù, thì thời hạn tù là có thời hạn. Vậy, thời gian Nguyễn V đã chấp hành từ ngày 15/5/2006 đến ngày 28/4/2011 có được tính vào thời gian đã chấp hành của mức án tù “có thời hạn 30 năm” không? Bởi theo quy định tại khoản 1 Điều 38 BLHS thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời hạn chấp hành án phạt tù, cứ 01 ngày tạm giữ, tạm giam bằng 01 ngày tù.

3. Một số đề xuất, kiến nghị

Hiện nay, chưa có quy định nào về việc tính thời hạn chấp hành án phạt tù của người đang chấp án tù chung thân mà bị tổng hợp hình phạt với hình phạt của tội phạm trước (hoặc sau) thì tính thời hạn bắt đầu chấp hành án từ thời điểm nào. Pháp luật cũng chưa có quy định minh thị nào về việc, một người khi đang chấp hành án phạt tù nhưng được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù, tha tù trước hạn có điều kiện mà bản án này bị tổng hợp hình phạt thì thời gian được giảm này, có được trừ vào thời hạn tù còn lại phải chấp hành án không. Tổng hợp hình phạt, giảm thời hạn chấp hành án phạt tù là vấn đề thường xuyên, cấp bách nên các quy định liên quan đến chế định này cần sớm được hướng dẫn cụ thể, chi tiết để được áp dụng thống nhất giữa BLHS, Luật Thi hành án hình sự hiện hành và các văn bản hướng dẫn của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng nhằm đảm bảo áp dụng thống nhất chế định trong thực tiễn.

Trong bối cảnh đó, để đảm bảo cho hoạt động áp dụng pháp luật một cách thống nhất, khắc phục các hạn chế, bất cập trong thời gian tới, trước hết tác giả đề xuất các cơ quan liên ngành tư pháp có hướng dẫn cách tuyên xử về thời điểm bắt đầu tính thời hạn bắt đầu chấp hành hình phạt tù theo hướng sau: “Đối với người bị kết án tù chung thân, người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân thì thời hạn bắt đầu chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị bắt đi thi hành án. Người bị kết án phạt tù chung thân đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù xuống 30 năm tù thì thời gian tạm giữ, tạm giam hoặc thời gian đã chấp hành án phạt tù được trừ vào thời hạn chấp hành án phạt tù theo quy định pháp luật.”

Trong thời gian tới, khi sửa đổi, bổ sung BLHS, tác giả kiến nghị sửa đổi khoản 3 Điều 56 BLHS như sau: “3. Trong trường hợp một người có nhiều bản án cùng có hiệu lực pháp luật mà hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp thì Chánh án Toà án ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này” và bổ sung khoản 2 Điều 63 BLHS như sau: “Đối với người bị kết án tù chung thân, người bị kết án về nhiều tội trong đó có tội bị kết án phạt tù chung thân nếu đã được giảm thời hạn chấp hành án phạt tù xuống 30 năm tù, thì thời gian đã tạm giữ, tạm giam, thời gian đã chấp hành án được trừ vào thời hạn chấp hành án phạt tù theo quy định pháp luật”.

Việc sửa đổi, bổ sung quy định này đảm bảo được sự chủ động và độc lập của Tòa án xét xử sau trong việc tuyên án và tổng hợp hình phạt (nếu có). Đề xuất của tác giả cũng là sự cụ thể hóa của các quy định được nêu tại Công văn số 163/TANDTC-PC ngày 10/9/2024 của Tòa án nhân dân tối cao; Điều 5 Nghị quyết số 03/2024/NQ-HĐTP ngày 10/6/2024, Nghị quyết số 02/2025/NQ-HĐTP ngày 27/6/2025 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.

Nguồn: Tạp chí Tòa án


Xem thêm:

Những đề xuất sửa đổi, bổ sung mới liên quan hình phạt và tội danh hình sự

Bàn về tình tiết phạm tội 02 lần trở lên theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015

Quy định trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự


Lưu ý: Các nội dung tư vấn hoặc văn bản pháp luật được trích dẫn trên có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại. Khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0867.678.066 để được tư vấn hỗ trợ một cách chính xác.


Khách hàng cần tư vấn chi tiết mời liên hệ:
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ DƯƠNG CÔNG
Văn phòng: Số 10 ngõ 40 Trần Vỹ, phường Phú Diễn, TP Hà Nội
Số điện thoại: 0867.678.066
Email: vanphongluatsuduongcong@gmail.com
Facebook: Hỗ trợ pháp lý
Tikok: Lscchannel

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *