Đưa hối lộ là hành vi dùng tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác trực tiếp hoặc qua trung gian để đưa cho người có chức vụ, quyền hạn, để người này làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của mình.
1. Quy định pháp luật về tội đưa hối lộ
Điều 364 Bộ luật Hình Sự năm 2019 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về tội đưa hối lộ như sau:
1. Người nào trực tiếp hay qua trung gian đã đưa hoặc sẽ đưa cho người có chức vụ, quyền hạn hoặc người khác hoặc tổ chức khác bất kỳ lợi ích nào sau đây để người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm một việc vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng;
b) Lợi ích phi vật chất.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
c) Dùng tài sản của Nhà nước để đưa hối lộ;
d) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
đ) Phạm tội 02 lần trở lên;
e) Của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng.
3. Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.000.000.000 đồng, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 12 năm.
4. Phạm tội trong trường hợp của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác trị giá 1.000.000.000 đồng trở lên, thì bị phạt từ tù 12 năm đến 20 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng.
6. Người nào đưa hoặc sẽ đưa hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước cũng bị xử lý theo quy định tại Điều này.
7. Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.
2. Cấu thành tội phạm
2.1 Chủ thể của tội phạm
Chủ thể tội đưa hối lộ không phải là chủ thể đặc biệt. Tuy nhiên, người phạm tội đưa hối lộ cũng có thể là người có chức vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để đưa hối lộ, nhưng không phải là dấu hiệu bắt buộc đối với tội phạm này.
Dù là người có chức vụ, quyền hạn hay người không có chức vụ, quyền hạn thì họ chỉ trở thành chủ thể của tội phạm này trong những trường hợp sau:
Những người đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội đưa hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 289 Bộ luật hình sự, vì các trường hợp phạm tội này là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
Người dưới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình sự về trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 289 Bộ luật hình sự mà chỉ những người đủ 16 tuổi trở lên mới chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm này, vì theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Đối với tội đưa hối lộ quy định tại khoản 1 của điều luật chỉ là tội phạm nghiêm trọng.
2.2 Khách thể của tội phạm
Tội đưa hối lộ xâm hại đến quan hệ xã hội bảo đảm cho uy tín và hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức trong và ngoài Nhà nước. BLHS đã cấm việc đưa hối lộ đối với các chủ thể có chức vụ, quyền hạn của các tổ chức, doanh nghiệp ngoài nhà nước.
Không chỉ hoạt động thực hiện công vụ của người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực Nhà nước mà cả hoạt động thực hiện nhiệm vụ của người có chức vụ, quyền hạn trong khu vực Nhà nước mà cả hoạt động thực hiện nhiệm vụ của người có chức vụ, quyền hạn ở khu vực ngoài Nhà nước cũng như hoạt động đó của công chức nước ngoài hoặc công chức của tổ chức quốc tế công, đó là đối tượng tác động của tội phạm theo BLHS năm 2015.
2.3 Mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội chỉ có hành vi khách quan duy nhất là “đưa”. Nhưng biểu hiện của hành đưa hối lộ rất đa dạng. Có trường hợp người phạm tội trực tiếp đưa hối lộ cho người nhận hối lộ, có trường hợp qua trung gian (người môi giới) để đưa hối lộ cho người nhận hối lộ, có trường hợp người đưa hối lộ dùng thủ đoạn tinh vi xảo quyệt không trực tiếp đưa hối lộ cho người nhận hối lộ cũng không qua trung gian mà tìm cách mua chuộc những người thân thích của người có chức vụ, quyền hạn…
Khi xác định hành vi đưa hối lộ cần phân biệt với hành vi làm môi giới hối lộ trong trường hợp người đưa hối lộ không dùng tiền, tài sản của mình và mục đích đưa hối lộ cũng không đem lại lợi ích cho mình mà đem lại lợi ích cho người mà người đưa hối lộ yêu cầu.
b. Hậu quả
Hậu quả của tội phạm này không phải dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, nếu của hối lộ chưa đến 500.000 đồng thì hậu quả lại là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm, nhưng phải là hậu quả nghiêm trọng.
Hậu quả nghiêm trọng do hành vi đưa hối lộ là những thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của con người; những thiệt hại về tài sản, uy tín của cơ quan, tổ chức và những thiệt hại phi vật chất khác.
Hành vi đưa hối lộ gây ra hậu quả nghiêm trọng, được xác định như là một nguyên nhân gián tiếp.
2.4 Mặt chủ quan của tội phạm
Tội đưa hối lộ người thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
Động cơ phạm tội tuy không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm này, nhưng hầu hết các trường hợp đưa hối lộ đều có động cơ.
3. Hình phạt
Tội đưa hối lộ có 4 khung hình phạt như sau:
– Khung cơ bản có mức phạt là phạt tiền từ 20 triệu đồng đến 200 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
– Khung tăng nặng có mức phạt tù từ 02 năm đến 07 năm được áp dụng trong trường hợp có một trong các tình tiết tăng nặng sau:
+ Phạm tội có tổ chức ;
+ Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
+ Dùng tài sản của nhà nước để đưa hối lộ;
+ Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
+ Phạm tội 02 lần trở lên;
+ Của hối lộ là tiền, tài sản, lợi ích vật chất khác có giá trị từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng.
– Khung tăng nặng có mức phạt tù từ 07 năm đến 12 năm được áp dụng trong trường hợp của hối lộ trị giá 500 triệu đồng đến dưới 1 tỷ đồng.
– Khung hình phạt tăng nặng có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm được áp dụng trong trường hợp của hối lộ trị giá 1 tỷ đồng trở lên.
Hình phạt bổ sung: người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 50 triệu đồng.
Những điều kiện xác định vô tội đối với hành vi đưa hối lộ và những điều kiện miễn TNHS đối với người phạm tội đưa hối lộ:
Quy định tại khoản 7 của điều luật “Người bị ép buộc đưa hối lộ mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội và được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.” và “Người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ.”. Đây là quy định đặc biệt ý nghĩa trong việc thực hiện chính sách hình sự đối với các tội phạm hối lộ.
Để bảo đảm chính sách hình sự khoan hồng đối với người do bị ép buộc phải đưa hối lộ thỏa mãn hai điều kiện:
– Việc đưa hối lộ không xuất phát từ ý muốn của người đưa mà do họ bị ép buộc. Nếu liên hệ thái độ chủ quan của người đưa hối lộ trong hoàn cảnh này với lý luận về lỗi trong luật hình sự Việt Nam thì có thể thấy người phạm tội có mức độ lỗi rất nhẹ.
– Người đưa hối lộ đã tự quyết định khai báo trước khi bị phát giác. Điều này có ý nghĩa là chủ thể đưa hối lộ đã tự quyết định khai báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về hành vi đưa hối lộ của mình cũng như về hành vi nhận hối lộ của người có chức vụ, quyền hạn mà không chịu bất kỳ một áp lực nào từ phía người khác.
Kết hợp hai điều kiện trên có thể thấy trường hợp đưa hối lộ này đã chứa đựng những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, vì vậy hành vi được xem là vô tội.
Đọc thêm: Tội nhận hối lộ (Điều 354 BLHS)
Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 360 BLHS)
Lưu ý: Các nội dung tư vấn hoặc văn bản pháp luật được trích dẫn trên có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại. Khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0867.678.066 để được tư vấn hỗ trợ một cách chính xác.
Khách hàng cần tư vấn chi tiết mời liên hệ:
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ DƯƠNG CÔNG
Văn phòng: Số 10 ngõ 40 Trần Vỹ, phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, Hà Nội
Số điện thoại: 0867.678.066
Email: vanphongluatsuduongcong@gmail.com