Cưỡng chế thi hành án cấp dưỡng nuôi con

Cưỡng chế thi hành án cấp dưỡng nuôi con là biện pháp thi hành án dân sự do chấp hành viên quyết định để buộc người có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con thực hiện nghĩa vụ theo bản án, quyết định của Tòa án, trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành. Trong bài viết này, các tác giả phân tích những khó khăn, vướng mắc trong hoạt động cưỡng chế thi hành án cấp dưỡng nuôi con, chỉ rõ bất cập và đưa ra những giải pháp khắc phục.

Nguồn: Internet                                                                                                                                                       

Cưỡng chế thi hành án cấp dưỡng nuôi con: Vướng mắc từ thực tiễn và khuyến nghị khắc phục

ThS. Lê Thị Mận, ThS. Nguyễn Phương Ân – Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh

1. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con và cưỡng chế thi hành án về cấp dưỡng nuôi con
Trong phạm vi quan hệ cấp dưỡng của cha mẹ đối với con, Luật HNGĐ năm 2014 quy định cha mẹ không trực tiếp nuôi con về nguyên tắc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Chủ thể – cha mẹ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi. Và chủ thể – con thụ hưởng nghĩa vụ cấp dưỡng gồm con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình.

Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con của cha mẹ có thể phát sinh trong các trường hợp: i) Cha mẹ sống chung với con nhưng trốn tránh nghĩa vụ nuôi con thì theo yêu cầu của cá nhân tổ chức có thẩm quyền, Tòa án buộc cha mẹ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con; ii) Cha, mẹ bị Tòa án hạn chế quyền đối với con chưa thành niên phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con4; iii) Cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi quan hệ của cha mẹ chấm dứt theo bản án, quyết định của Tòa án (trường hợp cha mẹ ly hôn, bị hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc không được công nhận quan hệ vợ chồng); iv) Cha, mẹ không sống chung với con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con (con sinh ra khi cha mẹ không tồn tại quan hệ hôn nhân) và khi con đang sống với một bên mẹ hoặc cha. Việc cấp dưỡng có thể được thực hiện một lần hoặc theo định kỳ hằng tháng, quý, năm. Mức cấp dưỡng xác định theo thỏa thuận hoặc Tòa án quyết định trên cơ sở pháp luật.
Về nguyên tắc, khi nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con đã được phán quyết thì cha mẹ phải thực hiện. Nhà nước thông qua các quy phạm pháp luật khuyến khích các bên đương sự thỏa thuận việc thi hành án (THA), nếu thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Bên cha, mẹ phải THA cấp dưỡng có quyền tự nguyện THA; thỏa thuận với bên được THA về thời gian, địa điểm, phương thức, nội dung THA; tự nguyện giao tài sản để THA.
2. Bất cập từ thực tiễn áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án cấp dưỡng nuôi con
Thứ nhất, khó áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án cấp dưỡng nuôi con do cha, mẹ chưa có điều kiện thi hành án qua xác minh.
Trong thực tế, trên cơ sở bản án, quyết định của cơ quan tài phán; theo yêu cầu của bên cha, mẹ được THA, Cơ quan THA đã ra quyết định THA cấp dưỡng nuôi con song những phán quyết đó – nhiều trường hợp qua thời gian dài – vẫn không được thực thi bởi theo kết quả xác minh thì cha, mẹ “chưa có điều kiện THA”9. Việc cha, mẹ chưa có điều kiện THA cấp dưỡng nuôi con chủ yếu thuộc hai nhóm trường hợp quy định tại điểm a hoặc điểm c khoản 1 Điều 44 Luật THADS hiện hành: i) Cha, mẹ không có tài sản, không có thu nhập để thực hiện nghĩa vụ; hoặc cha, mẹ có thu nhập chỉ bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho bản thân, cho người họ có trách nhiệm nuôi dưỡng, mà không có tài sản để THA; hoặc cha, mẹ có tài sản nhưng giá trị tài sản chỉ đủ để thanh toán chi phí CCTHA hoặc tài sản theo quy định của pháp luật không được kê biên, xử lý để THA; và ii) Cơ quan THA chưa xác định được địa chỉ, nơi cư trú của cha, mẹ phải THA.
Thứ hai, khó áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản của cha, mẹ phải thi hành án cấp dưỡng nuôi con.
Đây là biện pháp CCTHA đơn giản, không cần phải huy động lực lượng, không mất nhiều thời gian, chi phí liên quan việc cưỡng chế thấp, song thực tiễn áp dụng biện pháp này gặp không ít khó khăn. Hiện nay, thực tế vẫn xảy ra tình trạng để bảo mật thông tin khách hàng hoặc vì nguyên do khác, các cơ quan, tổ chức đang quản lý tài khoản thiếu hợp tác trong việc thực hiện quyết định khấu trừ, khiến quá trình CCTHA kéo dài. Trường hợp cha, mẹ phải THA mở tài khoản tiền gửi tại nhiều tổ chức tín dụng, dù pháp luật có quy định “căn cứ số dư tài khoản để quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế khấu trừ tiền trong tài khoản đối với một hoặc nhiều tài khoản để bảo đảm thu đủ tiền phải THA”, song để nắm được đầy đủ, chuẩn xác các thông tin liên quan là trở ngại lớn đối với Chấp hành viên (CHV). Bởi lẽ, hiện nay, dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử trong một số hoạt động ngân hàng, chẳng hạn, việc kết nối, sử dụng tài khoản định danh điện tử của khách hàng; việc kết nối với nền tảng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để đối chiếu, xác thực khách hàng… vẫn đang trong quá trình triển khai nghiên cứu ứng dụng.
Thứ ba, áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập của cha, mẹ phải thi hành án để thi hành án cấp dưỡng nuôi con còn khó khăn.
Trong thực tiễn, theo thỏa thuận của các bên hoặc theo phán quyết của Tòa án, bản án, quyết định cấp dưỡng nuôi con thường được “thi hành theo định kỳ”. Đồng thời, có những hoàn cảnh, tài sản khác của cha, mẹ không đủ để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con nên CHV áp dụng biện pháp trừ vào thu nhập của cha, mẹ để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nếu khoản tiền mà cha, mẹ phải THA cấp dưỡng cho con khôn lớn. Theo khoản 1 Điều 78 Luật THADS hiện hành, “thu nhập của người phải thi hành án gồm tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động và thu nhập hợp pháp khác”. Vấn đề đặt ra, khoản “thu nhập hợp pháp khác” được hiểu gồm những tài sản cụ thể nào? Và nếu hiểu “khoản tiền phải THA không lớn” so với tổng thu nhập (tiền lương, tiền công, tiền lương hưu, tiền trợ cấp mất sức lao động và thu nhập hợp pháp khác) của cha, mẹ thì tỷ lệ bao nhiêu được xem là “không lớn”? Quy định chưa minh bạch dẫn đến thực tế nhận thức và áp dụng pháp luật vấn đề này chưa thống nhất.
Thứ tư, việc kê biên, xử lý tài sản của cha, mẹ phải thi hành án để bảo đảm nghĩa vụ cấp dưỡng còn khó khăn, thiếu khả thi.
Trong quan hệ CCTHA cấp dưỡng nuôi con, thực tiễn áp dụng biện pháp kê biên, xử lý tài sản của cha, mẹ phải THA cấp dưỡng phát sinh bất cập liên quan đến tài sản được kê biên có giá trị chênh lệch so với giá trị tài sản phải thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng; khiến việc xử lý tài sản sau khi đã kê biên gặp khó khăn. Trường hợp tài sản được kê biên có giá trị nhỏ, như ti vi, tủ lạnh, bàn ghế… thì nhiều trường hợp, giá trị thu được từ việc bán tài sản không đủ chi phí cưỡng chế phải trả lại cho người phải THA. Ngược lại, nếu tài sản được kê biên có giá trị rất lớn, như nhà ở, quyền sử dụng đất, nhưng khoản tiền thi hành nghĩa vụ cấp dưỡng nhỏ thì việc cưỡng chế, xử lý tài sản kê biên càng phức tạp.

Có thể thấy, việc CCTHA cấp dưỡng nuôi con còn gặp không ít khó khăn trên thực tế. Nguyên nhân của những trở lực này trước hết do pháp luật THADS về CCTHA và các văn bản pháp luật liên quan thiếu đồng bộ, thiếu tính khả thi. Mặt khác, phán quyết cấp dưỡng nuôi con đa phần được thực thi trong khoảng thời gian dài; trong lúc đó, điều kiện kinh tế của cha, mẹ phải THA có thể khó khăn; ý thức chấp hành phán quyết về THA của các bậc sinh thành hạn chế… cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành loại nghĩa vụ đặc thù này.

3. Kiến nghị khắc phục bất cập, nâng cao hiệu quả hoạt động cưỡng chế thi hành án cấp dưỡng nuôi con

3.1. Kiến nghị về mặt pháp lý
3.1.1 Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự
– Quy định rõ các biện pháp CCTHA và minh bạch các tài sản không được cưỡng chế kê biên nhằm tạo thống nhất cho hoạt động áp dụng pháp luật, có sự dung hòa lợi ích chính đáng của các bên chủ thể quan hệ.
– Sửa đổi điểm c, khoản 2 Điều 78 Luật THADS hiện hành để tạo sự nhận thức và áp dụng thống nhất biện pháp cưỡng chế trừ vào thu nhập trong THA cấp dưỡng nuôi con, kể cả việc THA cấp dưỡng theo định kỳ và khi khoản tiền phải THA cấp dưỡng của cha, mẹ không lớn. Cần có quy phạm hướng dẫn xác định “khoản tiền phải thi hành án không lớn”; hướng dẫn xác định “thu nhập hợp pháp khác” dẫn chiếu theo Điều 9 Nghị số 126/2014/NĐ-CP24 gồm: khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp (trừ khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng); tài sản mà vợ, chồng được xác lập quyền sở hữu theo quy định của Bộ luật Dân sự đối với vật vô chủ, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị đánh rơi, bị bỏ quên, gia súc, gia cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước; thu nhập hợp pháp khác theo quy định của pháp luật.
– Bổ sung cơ chế pháp lý theo hướng tăng thẩm quyền đối với CHV nhằm nâng cao hiệu quả tác nghiệp THA, tạo thuận lợi cho hoạt động CCTHA cấp dưỡng nuôi con.
3.1.2 Hoàn thiện Luật Hôn nhân và gia đình và các văn bản pháp luật liên quan
– Bổ sung giải thích các từ ngữ “nuôi dưỡng”, “sống chung”, “không sống chung”, “thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng” và “nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng” vào Điều 3 Luật HNGĐ năm 2014 để có cơ sở xác định nghĩa vụ cấp dưỡng; hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng khi cha, mẹ đang sống chung với con và tạo thống nhất cho việc áp dụng chế tài buộc thực hiện cấp dưỡng;
– Quy định mức cấp dưỡng và hiệu lực của bản án, quyết định về cấp dưỡng nuôi con, tạo căn cứ thống nhất để Tòa án phán quyết nghĩa vụ cấp dưỡng mang tính khả thi, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động THA, CCTHA cấp dưỡng. Quy định thời điểm cấp dưỡng nuôi con xác định theo sự thỏa thuận của các bên quan hệ. Trường hợp các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không phù hợp lợi ích của con thì thời điểm cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án ra bản án, quyết định.

3.2. Kiến nghị về mặt tổ chức thực thi pháp lý

Cùng với giải pháp về mặt pháp lý, để thúc đẩy hoạt động CCTHA cấp dưỡng nuôi con, ngoài việc tăng cường sự phối hợp giữa cá nhân, cơ quan trong tổ chức THA, CCTHA; thanh, kiểm tra để phát hiện và xử lý kịp thời hành vi phạm pháp; hiện đại hóa hành chính, triển khai hiệu quả việc ứng dụng công nghệ thông tin trong THADS thì giải pháp tư vấn, truyền thông nhằm thay đổi, nâng cao nhận thức về trách nhiệm bảo đảm quyền được nuôi dưỡng – cấp dưỡng của con có ý nghĩa đặt biệt quan trọng. Theo đó, đẩy mạnh, đa dạng hóa, đổi mới truyền thông giáo dục pháp luật bằng nhiều hình thức, qua nhiều kênh công nghệ thông tin như Facebok, Zalo, Youtube nhằm tuyên truyền, vận động xã hội về trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con, nghĩa vụ THA sau khi có bản án, quyết định của Tòa án. Các giải pháp hỗ trợ kiến thức, kỹ năng thực tế cho cha mẹ, thành viên gia đình, giúp họ thay đổi nhận thức, hành vi trong việc bảo vệ, nuôi dưỡng, thực hiện quyền được cấp dưỡng của con cái sẽ góp phần giảm tải vướng mắc trong quá trình CCTHA về cấp dưỡng nuôi con trên thực tế.

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 14 (493)/kỳ 2, tháng 7/2024


Xem thêm:

Về thời điểm phát sinh và căn cứ chấm dứt việc nuôi con nuôi, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con

Tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng (Điều 186 BLHS)


Lưu ý: Các nội dung tư vấn hoặc văn bản pháp luật được trích dẫn trên có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại. Khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0867.678.066 để được tư vấn hỗ trợ một cách chính xác.


Khách hàng cần tư vấn chi tiết mời liên hệ:
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ DƯƠNG CÔNG
Văn phòng: Số 10 ngõ 40 Trần Vỹ, phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, Hà Nội
Số điện thoại: 0867.678.066
Email: vanphongluatsuduongcong@gmail.com
Tiktok: tiktok.com/@lscchannel

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *