Pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam
Lượt xem:11
Hiện nay, ở nước ta,tình trạng xâm hại tình dục phụ nữ, đặc biệt là trẻ em có chiều hướng gia tăng. Nhiều vụ việc xâm hại tình dục trẻ em đã được báo chí và công luận phản ánh nhưng tình trạng này chưa có dấu hiệu dừng lại. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, trong đó có nguyên nhân về sự bất cập của pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em. Trong bài viết này, tác giả phân tích thực trạng, chỉ ra những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em của nước ta, qua đó đề xuất giải pháp hoàn thiện nhằm tăng cường hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em.
Pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em ở Việt Nam
PGS. TS. Vũ Hồng Anh – Học viện Phụ nữ Việt Nam.
Ảnh minh họa: Nguồn internet
Ở nước ta, pháp luật hiện hành mới đưa ra định nghĩa về xâm hại tình dục trẻ em, mà không định nghĩa về xâm hại tình dục phụ nữ. Do vậy, trên diễn đàn khoa học, đã có nhiều ý kiến khác nhau về định nghĩa thế nào là xâm hại tình dục. Mặc dù còn có cách hiểu khác nhau, nhưng thuật ngữ “xâm hại tình dục” có thể được hiểu là hành vi tình dục không tự nguyện, trong một số trường hợp còn sử dụng vũ lực. Xâm hại tình dục có thể bao gồm việc lạm dụng tình dục, loạn luân, cưỡng hiếp và bóc lột tình dục…
1. Quy định của Hiến pháp về phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em
Hiến pháp là luật cơ bản của Nhà nước có hiệu lực pháp lý cao nhất. Hiến pháp là văn bản cao nhất thể chế hóa đường lối của Đảng và Nhà nước. Các quy định của Hiến pháp là những nguyên tắc cơ bản, tạo cơ sở cho việc xây dựng hệ thống pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội trong các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em, cụ thể:
Khoản 1 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Quy định của Hiến pháp là cơ sở pháp lý quan trọng bảo vệ, bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của phụ nữ và trẻ em, tạo cơ sở pháp lý cho cụ thể hóa bằng văn bản luật, dưới luật quy định về bảo vệ phụ nữ và trẻ em nói chung, quy định về phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em nói riêng.
Điều 30 Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền tố cáo: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và phục hồi danh dự theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác”. Quy định này được cụ thể hóa bằng luật, là một bảo đảm quan trọng cho phụ nữ và trẻ em thực hiện quyền tự bảo vệ mình khi bị xâm hại tình dục.
Ngoài ra, Nhà nước còn dành sự quan tâm đặc biệt đến trẻ em, thể hiện ở quy định của khoản 1 Điều 37 Hiến pháp năm 2013: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Đây cũng là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc cụ thể hóa bằng văn bản luật, dưới luật quy định về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em.
2. Quy định của luật, văn bản dưới luật về phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em
2.1. Quy định của luật, văn bản dưới luật về phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ
Dưới góc độ dân sự – hành chính – lao động, pháp luật hiện hành của nước ta (luật, văn bản dưới luật) không đề cập khái niệm xâm hại tình dục phụ nữ, mà giải thích khái niệm quấy rối tình dục. Theo quy định của khoản 9 Điều 3 Bộ luật Lao động hiện hành, quấy rối tình dục tại nơi làm việc là hành vi có tính chất tình dục của bất kỳ người nào đối với người khác tại nơi làm việc mà không được người đó mong muốn hoặc chấp nhận. Nơi làm việc là bất kỳ nơi nào mà người lao động thực tế làm việc theo thỏa thuận hoặc phân công của người sử dụng lao động.
Để làm rõ hơn về khái niệm quấy rối tình dục tại nơi làm việc, khoản 2 Điều 85 Nghị định số 145/2000/NĐ-CP ngày 14/12/2000 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động (Nghị định số 145) quy định: Quấy rối tình dục tại nơi làm việc bao gồm: a) Hành vi mang tính thể chất gồm hành động, cử chỉ, tiếp xúc, tác động vào cơ thể mang tính tình dục hoặc gợi ý tình dục; b) Quấy rối tình dục bằng lời nói gồm lời nói trực tiếp, qua điện thoại hoặc qua phương tiện điện tử có nội dung tình dục hoặc có ngụ ý tình dục; c) Quấy rối tình dục phi lời nói gồm ngôn ngữ cơ thể; trưng bày, miêu tả tài liệu trực quan về tình dục hoặc liên quan đến hoạt động tình dục trực tiếp hoặc qua phương tiện điện tử. Định nghĩa theo phương pháp liệt kê cụ thể các hành vi được coi là quấy rối tình dục có ưu điểm là chỉ rõ hành vi nào được coi là quấy rối tình dục, nhưng điểm hạn chế của phương pháp này là có thể bỏ lọt hành vi quấy rối tình dục.
Để phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc, pháp luật yêu cầu người sử dụng lao động có trách nhiệm: thực hiện và giám sát việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc; tổ chức tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật và quy định về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc cho người lao động, khi xuất hiện khiếu nại, tố cáo về hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc; người sử dụng lao động phải kịp thời ngăn chặn, xử lý và có biện pháp bảo vệ bí mật, danh dự, uy tín, nhân phẩm, an toàn cho nạn nhân bị quấy rối tình dục, người khiếu nại, tố cáo và người bị khiếu nại, bị tố cáo (khoản 1 Điều 86 Nghị định số 145). Người lao động có nghĩa vụ: thực hiện nghiêm các quy định về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc; tham gia xây dựng môi trường làm việc không có quấy rối tình dục; ngăn cản, tố cáo hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc. Tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở có trách nhiệm: tham gia xây dựng, thực hiện, giám sát việc thực hiện các quy định về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc; cung cấp thông tin, tư vấn và đại diện cho người lao động bị quấy rối tình dục, người lao động đang bị khiếu nại, bị tố cáo có hành vi quấy rối tình dục; tuyên truyền, phổ biến, tập huấn quy định về phòng, chống quấy rối tình dục tại nơi làm việc.
Cùng với việc xác định các hành vi quấy rối tình dục tại nơi làm việc, pháp luật nước ta còn quy định các biện pháp hành chính, hình sự phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ. Theo quy định của khoản 3, khoản 5 Điều 7 Nghị định số 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống tệ nạn; phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ; phòng, chống bạo lực gia đình (Nghị định số 144), hành vi quấy rối tình dục bị xử lý như sau: Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng khi có hành vi khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác; phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sàm sỡ, quấy rối tình dục; khiêu dâm, kích dục ở nơi công cộng; buộc xin lỗi công khai trừ trường hợp nạn nhân có đơn không yêu cầu.
Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS năm 2015) quy định truy cứu trách nhiệm hình sự và xử phạt từ 02 năm đến 07 năm tù đối với người dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân; trong một số trường hợp phạm tội, hình phạt tù có thể lên đến 20 năm tù hoặc chung thân (Điều 141. Tội hiếp dâm). Trường hợp người dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu hoặc miễn cưỡng thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm; trường hợp tăng nặng hình phạt tù lên đến 18 năm (Điều 143. Tội cưỡng dâm).
2.2. Quy định của luật, văn bản dưới luật về phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em
Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền trẻ em, ngày 15/4/2016 Quốc hội đã thông qua Luật Trẻ em. Luật Trẻ em quy định về quyền, bổn phận của trẻ em; nguyên tắc, biện pháp bảo đảm thực hiện quyền trẻ em; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cơ sở giáo dục, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em. Để phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em, khoản 8 Điều 4 Luật Trẻ em năm 2016 định nghĩa: Xâm hại tình dục trẻ emlà việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức. Đồng thời Luật khẳng định, trẻ em có quyền được bảo vệ dưới mọi hình thức để không bị xâm hại tình dục (Điều 25); quy định các cấp độ bảo vệ trẻ em trước hành vi xâm hại tình dục từ phòng ngừa đến hỗ trợ và can thiệp (các Điều 48, 49, 50).
Để hướng dẫn thi hành Luật Trẻ em, Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2017/NĐ-CP ngày 19/5/2017 Quy định chi tiết một số điều của Luật Trẻ em (Nghị định số 56). Điều 13 Nghị định số 56 liệt kê cụ thể hành vi xâm hại tình dục trẻ em gồm: hiếp dâm trẻ em; cưỡng dâm trẻ em; giao cấu với trẻ em; dâm ô trẻ em; sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức. Những hành vi này tương ứng với các tội danh được định danh trong BLHS năm 2015 (các Điều 142, 143, 144, 145, 146, 147) với các mức hình phạt từ 1 năm đến chung thân hoặc tử hình. Tiếp đến, pháp luật xử lý vi phạm hành chính cũng quy định xử phạt vi phạm hành chính từ 5.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng về hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (trẻ em) nhưng chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự (điểm d khoản 5 Điều 7 Nghị định số 144).
Bên cạnh những văn bản nêu trên, pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em còn bao hàm những quy định của pháp luật tố tụng như Luật Tố tụng hành chính năm 2015, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn xét xử các vụ án xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em.
Ngoài ra, pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em còn bao gồm nghị quyết của Quốc hội, ví dụ, Nghị quyết số 121/2020/QH14 ngày 19/6/2020 về tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách, pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em; quyết định của Thủ tướng Chính phủ, ví dụ, Quyết định số 1472/QĐ-TTg ngày 28/9/2020 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Kế hoạch triển khai, thực hiện Nghị quyết số 121/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội về Tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả việc thực hiện chính sách pháp luật về phòng, chống xâm hại trẻ em; thông tư của các bộ ngành, ví dụ; Thông tư số 13/2021/TT-BLĐTBXH ngày 30/9/2021 của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội về Ban hành chỉ tiêu thống kê tình hình trẻ em và tình hình xâm hại trẻ em, Thông tư số 28/2019/TT-BLĐTBXH ngây 26/12/2019 về Hướng dẫn tổ chức Tháng hành động vì trẻ em…
3.Những hạn chế trong quy định của pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ, trẻ em và một số khuyến nghị
3.1. Những hạn chế trong quy định của pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em
Thứ nhất, pháp luật hiện nay chưa làm rõ khái niệm “xâm hại tình dục phụ nữ”.
Như đã đề cập ở trên, pháp luật của nước ta mới định nghĩa thế nào là xâm hại tình dục trẻ em, quấy rối tình dục tại nơi làm việc, mà không để cập đến xâm hại tình dục phụ nữ. Đây là một hạn chế cần được khắc phục. Bởi lẽ, phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ cần được thực hiện ở mọi nơi, mọi chỗ chứ không chỉ riêng trong phạm vi nơi làm việc. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật còn có quy định khác nhau về phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ, ví dụ:
– Nghị định số 144 quy định xử phạt hành chính đối với hành vi sàm sỡ, quấy rối tình dục; khiêu dâm, kích dục ở nơi công cộng, trong khi đó, thế nào là hành vi sàm sỡ, khiêu dâm, kích dục ở nơi công cộng chưa được làm rõ.
– BLHS năm 2015 không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi quấy rối tình dục.
Những hạn chế này đã gây ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ trên thực tế.
Thứ hai, định nghĩa của Luật Trẻ em về “xâm hại tình dục trẻ em” còn chưa bao quát hết các trường hợp, hành vi có thể được coi là xâm hại tình dục trẻ em.
Như ở trên đã đề cập, pháp luật hiện hành xác định xâm hại tình dục trẻ em biểu hiện ở 5 loại hành vi tương ứng với 5 loại tội phạm theo quy định của BLHS năm 2015. Trong đó, Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi[1] được thiết kế nhằm trù liệu các trường hợp xâm hại tình dục trẻ em không nhằm quan hệ tình dục. Theo quy định của khoản 3 Điều 3 Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP ngày 1/10/2019 của Hội đồng Thẩm phán, Tòa án nhân dân tối cao (Nghị quyết số 06), dâm ô là hành vi của những người cùng giới tính hoặc khác giới tính tiếp xúc về thể chất trực tiếp hoặc gián tiếp qua lớp quần áo vào bộ phận sinh dục, bộ phận nhạy cảm, bộ phận khác trên cơ thể của người dưới 16 tuổi có tính chất tình dục nhưng không nhằm quan hệ tình dục. Nội dung của quy định này cho thấy, Tội dâm ô đối với người chưa đủ 16 tuổi (trẻ em) không bao quát hết những hành vi xâm hại tình dục trẻ em trên thực tế. Cụ thể, những hành vi như: dùng ngôn ngữ cơ thể; trưng bày, miêu tả tài liệu trực quan về tình dục hoặc liên quan đến hoạt động tình dục qua phương tiện điện tử chưa được đề cập đến. Như vậy, pháp luật hiện hành còn bỏ lọt những hành vi xâm hại tình dục trẻ em. Hạn chế này cũng gây ảnh hưởng tiêu cực đến công tác phòng, chống xâm hại tình dục trẻ em ở nước ta trong thời gian qua.
Thứ ba, hành vi quấy rối tình dục chưa được hình sự hóa.
Pháp luật hiện hành của nước ta chưa hình sự hóa hành vi quấy rối tình dục, quấy rối tình dục phụ nữ và trẻ em, mặc dù, đây là một hiện tượng đã và đang diễn ra trong thực tế, gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tinh thần và sự bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhân phẩm, danh dự của phụ nữ và trẻ em. Việc xử lý hành vi quấy rối tình dục mới chỉ dừng lại ở hình thức xử phạt vi phạm hành chính. Bởi lẽ, theo giải thích của Nghị quyết số 06, hành vi này chưa nguy hiểm cho xã hội đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự, mà chỉ áp dụng biện pháp giáo dục. Tuy nhiên, nếu hành vi quấy rối tình dục trẻ em mà đủ các dấu hiệu của tội dâm ô, thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi dâm ô đối với người dưới 16 tuổi. Tác giả cho rằng, đây là hạn chế của pháp luật nước ta, làm giảm hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em.
Thứ tư, chưa có quy định về quy trình riêng để xử lý tố giác, tin báo về tội phạm xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em, thiếu chế tài xử lý các cơ quan, tổ chức, cá nhân không tố cáo, tố giác hành vi xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em. Với các vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục thì giai đoạn trình báo, tố giác tội phạm là rất quan trọng. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành mới dừng lại ở quy định về quy trình xử lý thông tin tố giác, tin báo về tội phạm nói chung, mà chưa có quy định về quy trình xử lý thông tin tố giác, tin báo về hành vi xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em. Những thông tin ban đầu rất quan trọng phục vụ cho công tác xác minh, điều tra các loại tội phạm xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em, vì vậy đòi hỏi cần có quy trình xử lý thông tin tố giác, báo tin một cách kịp thời nhanh chóng. Quy trình hiện hành không đáp ứng được yêu cầu của công tác phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em nên cần phải xây dựng quy trình riêng phục vụ cho công tác này. Ngoài ra, pháp luật hiện hành cũng chưa bao hàm quy định về các biện pháp xử lý đối với hành vi của cơ quan, tổ chức, cá nhân không tố cáo, tố giác hoặc không kịp thời tố cáo, tố giác hành vi xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em. Hạn chế này cũng gây ảnh hưởng tiêu cực đến công tác phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em ở nước ta trong thời gian qua.
Thứ năm, thủ tục pháp lý xử lý các vụ việc liên quan đến xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em chưa bảo đảm bảo vệ kịp thời nạn nhân.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, quy trình trưng cầu giám định về xâm phạm tình dục đang được thực hiện theo các bước: (1) Sau khi nạn nhân hoặc gia đình trình báo sự việc, cơ quan điều tra tiến hành lập biên bản lấy lời khai; (2) Đưa nạn nhân đến cơ sở khám, chữa bệnh, thường là các bệnh viện có chuyên khoa sản để khám chứng thương; (3) Sau khi hoàn tất hồ sơ, cơ quan điều tra gửi quyết định trưng cầu giám định pháp y tình dục đến Trung tâm pháp y lấy ý kiến thẩm định.
Nhiều trường hợp bị muộn nên không còn dấu vết của hành vi xâm hại tình dục, Trung tâm pháp y chỉ có thể thẩm định lại các dấu hiệu tổn thương đã được ghi nhận tại các cơ sở khám chữa bệnh trước đó xem có đúng không, kết quả này không có tác dụng giúp cơ quan điều tra xác định đây có phải là vụ việc xâm hại tình dục hay không; có trường hợp thời gian giám định pháp y còn kéo dài hơn nếu trong quá trình giải quyết vụ án, bị cáo được tư vấn không đồng ý với bản kết luận giám định pháp y đã nhận được trước đó nên đã đề nghị với Hội đồng xét xử cho giám định pháp y lại[2]. Việc kéo dài thời gian do phải thực hiện các thủ tục nêu trên sẽ làm chậm đáng kể thời gian thụ lý, khám xét, thu giữ chứng cứ, dấu vết liên quan tới vụ việc và điều này đã gây ảnh hưởng đến việc bảo vệ nạn nhân là phụ nữ và trẻ em bị xâm hại tình dục.
Thứ sáu, quy định nạn nhân phải có trách nhiệm chứng minh mình bị xâm hại tình dục trái ý muốn là chưa hợp lý.
Theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự, việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm tình dục là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, để chứng minh việc bị hiếp dâm hoặc bị cưỡng ép quan hệ tình dục, nạn nhân phải chứng minh là đã bị quan hệ tình dục “trái ý muốn”. Tác giả cho rằng, quy định này chưa hợp lý bởi vô hình trung đã đặt trách nhiệm chứng minh tội phạm lên nạn nhân. Điều này trái với nguyên tắc chung là việc chứng minh tội phạm thuộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước và điều này đã khiến cho quá trình tố tụng trở nên khó khăn do nạn nhân thường e ngại trình báo vụ việc với cơ quan chức năng.
Thứ bảy, quy định về bảo vệ nạn nhân là phụ nữ và trẻ em bị xâm hại tình dục chưa đầy đủ.
Quy định của pháp luật nước ta về bảo vệ nạn nhân là phụ nữ và trẻ em bị xâm hại tình dục trong quá trình thu thập chứng cứ chưa cụ thể, đặc biệt là những quy định về bảo mật thông tin, việc giữ bí mật đời sống riêng tư cho nạn nhân; thiếu các quy định bảo vệ người tố giác tội phạm. Điều này cũng gây ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả của công tác phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em ở nước ta trong thời gian qua.
3.2. Một số khuyến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em
Để tăng cường hiệu quả của công tác đấu tranh phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em, tác giả đề xuất một số khuyến nghị hoàn thiện pháp luật như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về phòng, chống xâm hại tình dục theo hướng bổ sung quy định về khái niệm xâm hại tình dục; nghiên cứu xây dựng Luật Phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em nhằm bảo đảm sự thống nhất cách hiểu về các hành vi quấy rối tình dục, xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em để xác định các biện pháp phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em một cách toàn diện và hiệu quả, bảo đảm công tác phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ được thực hiện ở mọi nơi, mọi lúc mà không riêng chỉ nơi công sở, nơi làm việc.
Thứ hai, sửa đổi quy định định nghĩa về xâm hại tình dục đối với trẻ em theo hướng mở rộng bao quát các hành vi có thể được coi là xâm hại tình dục trẻ em.
Thứ ba, hình sự hóa một số hành vi quấy rối tình dục phụ nữ gây ảnh hưởng lớn đến sức khỏe, tinh thần và sự bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhân phẩm, danh dự của phụ nữ và trẻ em, những trường hợp tái phạm hành vi quấy rối tình dục phụ nữ và trẻ em.
Thứ tư, bổ sung quy định quy trình xử lý thông tin tố giác, báo tin đối với tội phạm xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em theo hướng tinh giản, bảo đảm cho cơ quan chức năng nhanh chóng, kịp thời xử lý thông tin, thụ lý, khám xét, thu giữ chứng cứ, dấu vết liên quan tới vụ việc xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em; bổ sung chế tài xử lý các cơ quan, tổ chức, cá nhân không tố cáo, tố giác hành vi xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của các chủ thể này trong đấu tranh phòng, chống xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em.
Thứ năm, xây dựng quy trình, thủ tục đặc biệt trong quá trình thu thập chứng cứ, lấy lời khai mà không làm tổn hại tinh thần đối với nạn nhân. Theo đó, việc tiếp xúc lấy lời khai, xét hỏi người bị hại, nhân chứng cần phải được thực hiện theo quy trình riêng, đặc biệt với người chưa thành niên; hỗ trợ họ cung cấp lời khai hiệu quả và giảm chấn thương tâm lý khi tham gia vào quá trình tố tụng; bổ sung quy định về các biện pháp bảo vệ nạn nhân và nhân chứng, bảo đảm cho nạn nhân và nhân chứng điều kiện an toàn khi tố giác hoặc cung cấp thông tin liên quan đến tội phạm xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em cho cơ quan chức năng trong quá trình tố tụng./.
[2] Đặng Viết Đại, Hoàn thiện pháp luật về bảo đảm quyền của nạn nhân bị xâm hại tình dục, https://vksndtc.gov.vn/tin-tuc-su-kien/chi-thi-cong-tac-nganh-kiem-sat-nhan-dan-nam-2019/hoan-thien-phap-luat-ve-bao-dam-quyen-cua-nan-nhan-s23-t9585.html, truy cập ngày 14/6/2024.
(Nguồn tin: Bài viết đăng tải trên ấn phẩm Nghiên cứu lập pháp số 23(502), tháng 12/2024)
Lưu ý: Các nội dung tư vấn hoặc văn bản pháp luật được trích dẫn trên có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại. Khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0867.678.066 để được tư vấn hỗ trợ một cách chính xác.
Khách hàng cần tư vấn chi tiết mời liên hệ: VĂN PHÒNG LUẬT SƯ DƯƠNG CÔNG Văn phòng: Số 10 ngõ 40 Trần Vỹ, phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, Hà Nội Số điện thoại: 0867.678.066 Email: vanphongluatsuduongcong@gmail.com Tikok: www.tiktok.com/@lscchannel