Đẩy mạnh cải cách thể chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả phát triển khu vực kinh tế tư nhân

Trong bài viết “Phát triển kinh tế tư nhân – Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng,” Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh vai trò quan trọng của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc gia. Tổng Bí Thư Tô Lâm khẳng định rằng kinh tế tư nhân không chỉ là một thành phần của nền kinh tế, mà còn là động lực quan trọng nhất để thúc đẩy tăng trưởng và đổi mới sáng tạo. Tổng Bí thư Tô Lâm cũng chỉ ra rằng, để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, cần có sự cải cách thể chế quyết liệt trên nền tảng đổi mới tư duy, hướng đến phục vụ người dân và doanh nghiệp. Điều này bao gồm việc giảm thiểu sự can thiệp hành chính, xóa bỏ các rào cản và cơ chế xin – cho, thực sự quản lý kinh tế theo nguyên tắc thị trường và sử dụng các công cụ thị trường để điều tiết nền kinh tế . Trên cơ sở, quan điểm định hướng mang tính chính trị – pháp lý trên, tác giả nghiên cứu việc hoàn thiện thể chế, chính sách là điều kiện thiết yếu để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giúp yếu tố thể chế và chính sách ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với khu vực Kinh tế tư nhân. Bài viết với mục đích nghiên cứu, trao đổi nhằm nâng cao chất lượng hoàn thiện thể chế trong việc thúc đẩy tăng trưởng Khu vực kinh tế tư nhân trong Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Đẩy mạnh cải cách thể chế, chính sách nhằm nâng cao hiệu quả phát triển khu vực kinh tế tư nhân

TS. Trần Văn Duy – Cục Phổ biến, giáo dục pháp luật và Trợ giúp pháp lý, Bộ Tư pháp

1. Đặt vấn đề nghiên cứu
Khu vực KTTN (KTTN) đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, đóng góp đáng kể vào GDP và tạo việc làm cho phần lớn lực lượng lao động. Tuy nhiên, hiệu quả quản lý nhà nước đối với khu vực này vẫn còn nhiều thách thức, phần lớn xuất phát từ các yếu tố thể chế và chính sách hiện hành.​Một trong những vấn đề nổi bật là hệ thống thể chế kinh tế chưa hoàn thiện, bộ máy hành chính còn kém hiệu quả, và thủ tục hành chính thiếu minh bạch, dẫn đến cơ chế trách nhiệm giải trình chưa rõ ràng. Những yếu tố này tạo ra môi trường kinh doanh thiếu thuận lợi, gây khó khăn cho sự phát triển của doanh nghiệp tư nhân[1]. ​ Ngoài ra, năng lực và chất lượng của nền hành chính cũng ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả quản lý nhà nước. Sự kết hợp không hài hòa giữa các yếu tố như thể chế, tổ chức bộ máy, và đội ngũ cán bộ, công chức dẫn đến hiệu quả quản lý chưa cao. Đặc biệt, chất lượng nguồn nhân lực trong bộ máy hành chính còn hạn chế, ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách và quản lý khu vực KTTN
Khu vực KTTN đã trở thành khu vực đông đảo nhất, đóng góp lớn nhất cho nền kinh tế Việt Nam. Cụ thể, khu vực này chiếm khoảng 98% tổng số doanh nghiệp, đóng góp 30% thu ngân sách, hơn 50% GDP, trên 56% tổng vốn đầu tư và tạo việc làm cho 85% lực lượng lao động.
(Nguồn: Báo Nhân dân – Hội thảo “Tháo gỡ bất cập chính sách để phát huy vai trò của KTTN trong nền kinh tế Việt Nam”, truy cập tại https://nhandan.vn/hoi-thao-thao-go-bat-cap-chinh-sach-de-phat-huy-vai-tro-cua-kinh-te-tu-nhan-trong-nen-kinh-te-viet-nam-post866672.html, truy cập lúc 12h ngày 31/3/2025)
Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp Khu vực KTTN vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn, công nghệ, và thị trường. Khả năng tích tụ vốn hạn chế khiến ít doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ có thể phát triển thành doanh nghiệp quy mô vừa, dẫn đến thiếu hụt các doanh nghiệp có quy mô đủ lớn để cạnh tranh trên thị trường quốc tế. ​ Do đó, để thúc đẩy sự phát triển của khu vực KTTN, cần tiếp tục nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện thể chế và chính sách. Việc cải cách hành chính, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và tạo môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng là những yếu tố quan trọng giúp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với khu vực KTTN.
2. Nhận diện cách hiểu khác nhau về khu vực kinh tế tư nhân:
Theo quan điểm nghiên cứu của Ban Kinh tế Trung ương: Theo nghĩa rộng, khu vực KTTN là khu vực dân doanh bao gồm các doanh nghiệp tư nhân trong nước, kể cả các hợp tác xã nông nghiệp, các doanh nghiệp phi nông nghiệp và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài dưới hình thức liên doanh hay 100% vốn. Theo nghĩa hẹp, khu vực KTTN là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh nhưng không bao gồm khu vực có vốn đầu tư nước ngoài số liệu thống kê thường theo cách phân loại này khi phân chia nền kinh tế thành ba khu vực: khu vực kinh tế quốc doanh, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Theo quan điểm của Bà Phạm Thị Thanh Bình, Viện Kinh tế và Chính trị Thế giới: KTTN, hiểu cách khái quát chung, là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm các doanh nghiệp trong và ngoài nước, trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư. KTTN là tất cả các cơ sở sản xuất kinh doanh không dựa trên sở hữu nhà nước về các yếu tố của quá trình sản xuất. Hiểu ở cấp độ hẹp, KTTN là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở hữu tư nhân, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. KTTN tồn tại dưới các hình thức như: doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các hộ kinh doanh cá thể.
Như vậy, theo quan điểm của tác giảKhu vực KTTN bao gồm các tổ chức và cá nhân sở hữu, quản lý và vận hành hoạt động sản xuất, kinh doanh dựa trên quyền sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Thành phần này bao gồm các hộ kinh doanh cá thể, doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần không có vốn nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc thị trường và trong khuôn khổ pháp luật. Khu vực KTTN vận hành theo cơ chế tự chủ, chịu trách nhiệm trước pháp luật và đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.
3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về việc xác định khu vực kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và nâng cao đời sống nhân dân
Việc xác định khu vực KTTN là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế quốc dân, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm và nâng cao đời sống nhân dân được thể hiện rõ trong các văn kiện và nghị quyết của Đảng qua các kỳ Đại hội:
Tại Đại hội lần thứ VI (1986), Đảng khởi xướng công cuộc Đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở đường cho sự phát triển của các thành phần kinh tế, bao gồm KTTN. Với quan điểm “cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế… Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch…”, “củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể một cách toàn diện”, “bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”…
Đến Đại hội IX (2001), Đảng chính thức xác định KTTN là một trong những thành phần kinh tế quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Đảng có quan điểm “tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh liên kết với nhau với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước”
Tại Đại hội XII (2016), Đảng tiếp tục nhấn mạnh vai trò của KTTN, khẳng định đây là một động lực quan trọng của nền kinh tế: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh KTTN ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn KTTN đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”
Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII (2017) về phát triển KTTN đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy khu vực này phát triển mạnh mẽ, bền vững và hiệu quả.​
Đại hội lần thứ XIII của Đảng khẳng định, phát triển mạnh mẽ khu vực KTTN cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả “thực sự trở thành một động lực quan trọng trong phát triển kinh tế”.
Gần đây nhất, Thông điệp của Tổng Bí Thư Tô Lâm tại bài viết “Phát triển KTTN – Đòn bẩy cho một Việt Nam thịnh vượng” để hiện tư duy và tầm nhìn chiến lược về KTTN. Tổng Bí thư cũng yêu cầu nhất quán quan điểm “mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”, trên cơ sở đó xây dựng chính sách làm yên lòng các nhà đầu tư, doanh nghiệp và doanh nhân.
Tổng Bí thư Tô Lâm cũng nhấn mạnh việc “bảo vệ hữu hiệu quyền tài sản, quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh và bảo đảm thực thi hợp đồng của doanh nghiệp tư nhân”. Theo Tổng Bí thư, Nhà nước phải đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản và quyền cạnh tranh bình đẳng của KTTN; xóa bỏ mọi rào cản, minh bạch hóa chính sách, không phân biệt đối xử giữa KTTN với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trong mọi chính sách. Tổng Bí thư cũng yêu cầu đẩy nhanh hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường đầy đủ, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, hiện đại, năng động và hội nhập. Đây là điều kiện tiên quyết để khu vực KTTN có thể phát triển nhanh và bền vững. “Phải coi nhiệm vụ thúc đẩy phát triển KTTN là trọng tâm của chúng ta hiện nay”.
Và Thủ tướng Phạm Minh Chính đã ký Quyết định số 526/QĐ-TTg ngày 6/3/2025 về việc thành lập Ban Chỉ đạo xây dựng Đề án Phát triển KTTN, do Thủ tướng làm Trưởng Ban.
Như vậy, quan điểm của Đảng ta đã có sự phát triển qua các kỳ Đại hội, từ việc thừa nhận đến khẳng định và thúc đẩy vai trò quan trọng của khu vực này trong nền kinh tế quốc dân.​
3. Yếu tố thể chế và chính sách ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân hiện nay
Điều 33 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013) quy định: “Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Thể chế và chính sách là những yếu tố có tác động quan trọng đến hiệu quả quản lý nhà nước đối với khu vực KTTN. Những quy định pháp luật, chính sách điều tiết cả đầu vào lẫn đầu ra của doanh nghiệp, cũng như toàn bộ quá trình hoạt động, góp phần tạo ra môi trường đầu tư và kinh doanh an toàn, hiệu quả như:
+ Thể chế, chính sách về đầu tư giữ vai trò quan trọng trong việc thu hút và thúc đẩy sự phát triển của khu vực KTTN. Chính sách đầu tư hướng tới việc tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, khích lệ doanh nghiệp tăng cường đầu tư vào những ngành, lĩnh vực mới, tăng cường sự đa dạng hóa các loại hình doanh nghiệp.
Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh, phức tạp, khó lường, kinh tế nước ta đã có sự phục hồi nhanh và rõ nét, là điểm sáng về tăng trưởng và ổn định kinh tế vĩ mô trong khu vực và trên thế giới. Năm 2024, nước ta đã hoàn thành toàn bộ 15/15 chỉ tiêu chủ yếu. Năm 2025 là năm đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa then chốt, tạo nền tảng để đất nước bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng của dân tộc. Cộng đồng doanh nghiệp nói chung, trong đó các doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8% vào năm 2025 và tiến tới tăng trưởng 2 con số trong những năm tiếp theo.
(Nguồn: Chỉ thị 10/CT-TTG nhằm tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa)
 
+ Thể chế, chính sách về tài chính, tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện cho doanh nghiệp tư nhân có thể tiếp cận được vốn, giúc doanh nghiệp đầu tư vào mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ. Những chính sách hỗ trợ doanh nghiệp về tín dụng, lãi suất, giảm thuế, được xem như là những đòn bẩy quan trọng trong quá trình phát triển.
+ Thể chế, chính sách về đất đai, lao động và công nghệ. Những quy định về đất đai, quyền sử dụng đất đóng vai trò quan trọng trong việc giúp doanh nghiệp tự tin đầu tư dài hạn. Chính sách lao động, nhân lực và đào tạo kỹ năng giúp doanh nghiệp có đội ngũ lao động có tay nghề cao, đảm bảo hiệu quả kinh doanh.
+ Thể chế, chính sách về thương mại và cạnh tranh tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận thị trường, tham gia chuỗi giá trị và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, trong thực tiễn triển khai thực hiện yếu tố thể chế và chính sách phát triển đối với Khu vực KTTN có một số bất cập như:
 + Khung pháp lý và chính sách chưa đồng bộ: Dù đã có nhiều cải cách pháp luật nhằm hỗ trợ phát triển KTTN, nhưng hệ thống thể chế vẫn tồn tại nhiều hạn chế. Sự chồng chéo, thiếu thống nhất giữa các văn bản pháp luật và việc ban hành các quy định mang tính ngắn hạn làm giảm tính ổn định của môi trường kinh doanh. Việc sửa đổi, bổ sung các luật liên quan như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư thường diễn ra nhưng chưa giải quyết triệt để những vướng mắc về điều kiện kinh doanh, thủ tục hành chính và bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp tư nhân.
Mặc dù có nhiều chương trình hỗ trợ KTTN, nhưng việc triển khai thực tế còn hạn chế. Các gói hỗ trợ tài chính, tín dụng ưu đãi chưa thực sự tiếp cận được số đông doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ngoài ra, các chính sách khuyến khích đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số còn chậm, khiến các doanh nghiệp tư nhân khó nâng cao năng lực cạnh tranh.
“Bởi vì muốn phát triển, tăng trưởng hai con số thì bên cạnh nguồn vốn đầu tư công, phải có sự tham gia của KTTN”. (Nguồn: Bộ trưởng Tư pháp Nguyễn Hải Ninh đề xuất nhiều giải pháp gỡ vướng về thể chế nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Phát biểu tại Hội nghị Chính phủ với các địa phương thực hiện kết luận của Trung ương, các Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về tăng trưởng kinh tế ngày 21/2/2025 (truy cập tại https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoat-dong-cua-lanh-dao-bo.aspx?ItemID=6837, truy cập lúc 12h ngày 31/3/2025)
 
+ Thực thi pháp luật còn nhiều bất cập: Khoảng cách giữa quy định pháp luật và thực tế thực thi vẫn còn lớn. Nhiều doanh nghiệp Khu vực KTTN phản ánh tình trạng thủ tục hành chính phức tạp, thời gian thực hiện kéo dài và chi phí tuân thủ cao. Cơ chế “xin – cho” vẫn còn phổ biến trong nhiều lĩnh vực, gây khó khăn cho doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả và tính minh bạch trong quản lý nhà nước.
+ Hệ thống thuế và tiếp cận vốn: Mặc dù Việt Nam đã có nhiều cải cách về thuế, nhưng gánh nặng thuế đối với doanh nghiệp tư nhân vẫn còn cao. Ngoài ra, việc tiếp cận vốn vay ngân hàng của doanh nghiệp tư nhân còn gặp nhiều trở ngại do điều kiện khắt khe về tài sản đảm bảo, thủ tục phức tạp và lãi suất cao.
4. Gợi ý một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các yếu tố thể chế và chính sách, qua đó thúc đẩy sự phát triển bền vững của khu vực kinh tế tư nhân trong giai đoạn tiếp theo
Thứ nhất, tăng cường, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với việc hoàn thiện thể chế và chính sách về công tác phát triển Khu vực KTTN. đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và tích cực triển khai Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 17-11-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới. Trong đó, đẩy mạnh việc đổi mới phương thức lãnh đạo gắn với xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã góp phần quan trọng vào việc nâng cao năng lực cầm quyền, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện, hiệu quả của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị và trên các lĩnh vực phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng. Khi đổi mới phương thức lãnh đạo ở các lĩnh vực khác sẽ góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng sẽ tiếp tục hoàn thiện mô hình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ hai, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật và nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với khu vực KTTN  thông qua các giải pháp cụ thể như: (i) ban hành mới hoặc sửa đổi, thay thế kịp thời các luật, nghị định, thông tư không còn phù hợp với thực tiễn phát triển KTTN; (ii) rà soát, loại bỏ các văn bản trái với Luật Doanh nghiệp, đồng thời ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành bảo đảm tính thống nhất và khả thi; (iii) xây dựng cơ chế pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tiếp cận dịch vụ pháp lý, đào tạo nguồn nhân lực, và nâng cao năng lực quản trị; (iv) hoàn thiện hệ thống thủ tục hành chính theo hướng tinh gọn, minh bạch, thuận lợi cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân.
Thứ ba, xác lập cải thiện môi trường kinh doanh là một nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên của quá trình cải cách thể chế, thông qua: (i) đơn giản hóa và minh bạch hóa thủ tục hành chính; (ii) nâng cao chất lượng dịch vụ công và hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước; (iii) bảo đảm quyền tiếp cận thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời cho doanh nghiệp; (iv) tăng cường cơ chế đối thoại, phản biện và tham vấn chính sách giữa Nhà nước và khu vực KTTN.
Thứ tư, tiếp tục đổi mới, bổ sung và hoàn thiện cơ chế, chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển KTTN thông qua các giải pháp như: (i) ban hành chính sách ưu đãi đầu tư minh bạch, có tiêu chí rõ ràng, dễ tiếp cận và công khai; (ii) mở rộng phạm vi hỗ trợ doanh nghiệp trong các lĩnh vực như đào tạo nghề, tư vấn pháp lý, chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường; (iii) giải quyết khó khăn về đất đai, mặt bằng sản xuất kinh doanh thông qua cơ chế tiếp cận đất công minh bạch và ổn định; (iv) cải thiện tiếp cận vốn, nâng cao hiệu quả chính sách tín dụng và bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp tư nhân; (v) triển khai chính sách thuế hợp lý, ổn định, tạo điều kiện tích lũy cho tái đầu tư và mở rộng quy mô doanh nghiệp; (vi) hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng và đổi mới khoa học – công nghệ.
Thứ năm, thống nhất nhận thức, tư tưởng, hành động trong triển khai các chủ trương, chính sách về phát triển KTTN
Trong đó, các bộ, ngành, địa phương có liên quan nêu cao tinh thần trách nhiệm, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, coi khó khăn của người dân, doanh nghiệp là khó khăn của mình để chủ động hỗ trợ, đồng hành, tháo gỡ trên tinh thần “không nói không, không nói khó, không nói có mà không làm”, “không hình sự hóa các quan hệ kinh tế, quan hệ dân sự”; quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, giao nhiệm vụ cụ thể trên tinh thần “rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thẩm quyền, rõ thời gian, rõ kết quả”…
Thứ sáu, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển KTTN; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện chính sách, pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, bình đẳng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; trong đó cắt giảm tối đa các thủ tục hành chính, trong năm 2025 giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính; giảm tối thiểu 30% chi phí tuân thủ; bãi bỏ ít nhất 30% điều kiện kinh doanh không cần thiết. Chuyển mạnh quản lý từ “tiền kiểm” sang “hậu kiểm”, gắn với tăng cường công tác kiểm tra, giám sát… Chú trọng phát triển đối với việc hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, chuyển đổi số, tăng năng suất lao động, xây dựng thương hiệu doanh nghiệp Việt để mở rộng thị trường và tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị…
Thứ bẩy, tăng cường công tác hỗ trợ pháp lý cho Khối Doanh nghiệp tư nhân.
Cần cụ thể hóa các Nghị quyết của Đảng về hỗ trợ doanh nghiệp, phát triển KTTN thành các văn bản pháp luật của Nhà nước, trước mắt cần có hướng dẫn thực hiện Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời kiến nghị  Chính phủ sửa đổi Nghị định 55/2019/NĐ ngày 26/4/2019 về hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp nhỏ và vừa cho phù hợp với tình hình thực tiễn trong điều kiện mới. Trong điều kiện hoàn cảnh mới, cần xác định các hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp có trọng tâm, trong điểm, đúng đối tượng, đúng nhu cầu.Thúc đẩy việc hình thành mạng lưới tư vấn pháp luật cho doanh nghiệp tại các địa phương.
Thứ năm, nghiên cứu mô hình Quỹ hỗ trợ pháp lý và khởi nghiệp sáng tạo cho Khối Doanh nghiệp tư nhân. Việc nghiên cứu và xây dựng mô hình Quỹ hỗ trợ pháp lý gắn với khởi nghiệp đổi mới sáng tạo dành cho khối doanh nghiệp tư nhân là một yêu cầu mang tính chiến lược trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã nhấn mạnh rằng: “hoạt động hỗ trợ pháp lý cho doanh nghiệp có bước phát triển mạnh”, cho thấy sự ghi nhận vai trò ngày càng quan trọng của công tác hỗ trợ pháp lý trong thúc đẩy phát triển bền vững khu vực doanh nghiệp. Trong giai đoạn 2021 – 2030, Đảng và Nhà nước đã xác định rõ các định hướng lớn đối với công tác hỗ trợ doanh nghiệp nói chung, trong đó có hỗ trợ pháp lý, cụ thể gồm: (i) củng cố và nâng cao năng lực tiếp cận pháp luật của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khối tư nhân; (ii) cung cấp các dịch vụ hỗ trợ pháp lý thiết thực nhằm giúp doanh nghiệp giải quyết tranh chấp thương mại, hạn chế rủi ro pháp lý trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế; (iii) xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ nhằm bảo đảm môi trường pháp lý ổn định, thuận lợi cho hoạt động sản xuất – kinh doanh; và (iv) triển khai các chương trình hỗ trợ theo hướng liên kết giữa các ngành, các vùng, bảo đảm tính thống nhất, hiệu quả và phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế số, kinh tế xanh và khởi nghiệp sáng tạo. Từ những định hướng nêu trên, việc hình thành Quỹ hỗ trợ pháp lý và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo cho Khối Doanh nghiệp tư nhân có thể được xem là một giải pháp thiết thực nhằm cụ thể hóa các mục tiêu của Đảng và Nhà nước, tạo hành lang pháp lý vững chắc, đồng thời khuyến khích tinh thần khởi nghiệp trong khối doanh nghiệp tư nhân – một trụ cột quan trọng trong phát triển kinh tế đất nước.
(Nguồn bài viết: Trang thông tin điện tử Bộ Tư pháp)

Lưu ý: Các nội dung tư vấn hoặc văn bản pháp luật được trích dẫn trên có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại. Khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0867.678.066 để được tư vấn hỗ trợ một cách chính xác.


Khách hàng cần tư vấn chi tiết mời liên hệ:
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ DƯƠNG CÔNG
Văn phòng: Số 10 ngõ 40 Trần Vỹ, phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, Hà Nội
Số điện thoại: 0867.678.066
Email: vanphongluatsuduongcong@gmail.com
Tikok: www.tiktok.com/@lscchannel

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *