Lý tưởng cao cả của loài người là độc lập, tự do. Lý tưởng ấy được khẳng định trong tư tưởng Hồ Chí Minh: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”.
Trên bình diện thế giới, tư tưởng ấy đã được đúc kết hùng hồn trong hai bản tuyên ngôn vĩ đại của nước Mỹ và Pháp, cụ thể là Tuyên ngôn Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1776) và Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền của Cộng hòa Pháp (1789). Hồ Chí Minh đã khẳng định lý tưởng ấy trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam ngày 2-9-1945: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Lời nói bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Chính vì quan tâm đặc biệt đến quyền tự do, trong đó có quyền tự do cơ bản là quyền bào chữa của bị can, bị cáo mà ngay sau khi giành độc lập cho đất nước, trong lúc phải bận trăm công ngàn việc liên quan đến vận mệnh đất nước, chỉ 38 ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ sự cần thiết phải thay thế tổ chức luật sư cũ do Pháp thiết lập từ năm 1864 ở nước ta và sửa đổi cho phù hợp với yêu cầu mới của Cách mạng Việt Nam, Người ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 quy định cho duy trì các tổ chức đoàn thể luật sư. Sắc lệnh 46/SL nêu rõ: “Cách tổ chức các đoàn thể luật sư trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vẫn tạm giữ như cũ. Sắc lệnh ngày 25-5-1930 quy định tổ chức ấy vẫn tạm thi hành với các điều sửa đổi sau này. Các luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các tòa án (…)” (Điều thứ 1 và 2). Điều này có nghĩa là Người đã đánh giá cao quyền bào chữa, nghề luật sư và vận dụng nó thích nghi, phù hợp trong điều kiện cụ thể của Cách mạng Việt Nam.
Sắc lệnh 46/SL ngày 10-10-1945 đã trở thành một cột mốc quan trọng trong việc hình thành khái niệm quyền bào chữa và nghề luật sư trong chế độ cách mạng. Hơn một năm sau, Hiến pháp đầu tiên (1946) của nước ta ra đời, do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo thực hiện, Điều thứ 67 đã quy định: “Các phiên tòa án đều phải công khai, trừ những trường hợp đặc biệt. Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.
Như vậy, quyền bào chữa đã chính thức trở thành một nguyên tắc hiến định trong lĩnh vực tư pháp. Nguyên tắc ấy đã khẳng định vị trí, vai trò của người luật sư trong xã hội dân chủ pháp quyền với tính cách là người bảo vệ, trợ giúp pháp lý cho nhân dân, đồng thời thể chế hóa quyền bào chữa và nhờ người khác – luật sư – bào chữa cho mình.
Một điều trùng hợp ý nghĩa là hơn hai năm sau, trong bản Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền ngày 10-12-1948 của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc, ý tưởng này cũng đã được khẳng định: “Mỗi bị cáo dù đã bị buộc tội đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng minh là phạm tội theo luật pháp tại một phiên tòa xét xử công khai với mọi bảo đảm biện hộ cần thiết” (khoản 1 Điều 11). Về sau, Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị đã được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc thông qua ngày 16-12-1966 (Việt Nam gia nhập ngày 24-9-1982) cũng khẳng định quyền bào chữa của con người và vai trò của luật sư trong xã hội tiến bộ. Cụ thể là trong quá trình xét xử về một tội phạm hình sự, mỗi người đều có quyền đòi hỏi đủ thời gian phù hợp, điều kiện thuận tiện để chuẩn bị bào chữa và liên hệ với người bào chữa do chính mình lựa chọn, trong trường hợp do lợi ích của công lý đòi hỏi, phải bố trí cho người đó một sự giúp đỡ về pháp lý mà người đó không phải trả tiền nếu họ không có đủ điều kiện trả (khoản 3 Điều 14 Công ước). Đến năm 1990, Hội nghị Liên Hiệp Quốc lần thứ 8 về phòng chống tội phạm tổ chức ở Havana (Cu-ba) đã thông qua “Các nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư”(Basic principles on the role of lawyers) đã đặt trách nhiệm cho các chính phủ và hiệp hội chuyên môn của luật sư ở các nước là phải thúc đẩy những chương trình nhằm thông báo cho công chúng biết rõ vai trò quan trọng của luật sư trong việc bảo vệ các quyền tự do cơ bản của công dân.
Ở Việt Nam, quyền bào chữa của công dân và vai trò của luật sư ngày càng được nâng cao. Sau ngày độc lập, thống nhất đất nước, nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã lần lượt xác định quyền bào chữa và nghề luật sư. Hiến pháp năm 1980, Điều 133 quy định: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý”. Điều 132 Hiến pháp năm 1992 cũng nêu rõ: “Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình”.
Nhà nước ta lần lượt thể chế hóa, nâng cao vai trò của luật sư qua các văn bản quy phạm pháp luật từ thấp đến cao: Pháp lệnh Tổ chức luật sư ngày 18-12-1987 và Quy chế Đoàn Luật sư ban hành kèm theo Nghị định số 15/HĐBT ngày 12-2-1989 của Hội đồng Bộ trưởng đánh dấu sự đổi mới về tư duy pháp lý đối với nghề luật sư theo tinh thần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986). Để tiếp tục hoàn thiện chế định luật sư, mười hai năm sau một pháp lệnh mới về luật sư được ban hành. Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đưa chế định luật sư nước ta tiếp cận với chuẩn mực quốc tế, làm cơ sở cho việc hội nhập thế giới trong quá trình toàn cầu hóa. Sau 5 năm thi hành Pháp lệnh, Luật Luật sư năm 2006 (có hiệu lực từ ngày 01-01-2007) thay thế Pháp lệnh Luật sư năm 2001.
Các Bộ luật Tố tụng hình sự và Bộ luật Tố tụng dân sự của nhà nước cũng từng bước tạo điều kiện thuận lợi để bảo đảm đầy đủ quyền bào chữa, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân trước pháp luật và không ngừng nâng cao vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng.
Đội ngũ luật sư Việt Nam ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Với quá trình lịch sử 79 năm qua, lực lượng luật sư không ngừng lớn mạnh về số lượng cũng như tính chuyên nghiệp trong hoạt động hành nghề. Thực tế, giới luật sư thời gian qua đã góp phần tích cực trong việc phát huy quyền dân chủ cơ bản của công dân, bảo vệ quyền lợi chính đáng của công dân, đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ pháp luật, phục vụ tích cực công cuộc cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Sự kiện đáng tự hào ấy được đặt nền móng từ việc ban hành và từng bước hoàn thiện chế định luật sư Việt Nam theo Sắc lệnh 46/SL ngày 10-10-1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh.