Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được quy định từ Luật Hôn nhân và gia đình (Luật HN&GĐ) năm 1986 và vẫn tiếp tục được Luật HN&GĐ 2014 kế thừa. Quy định cho phép vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã mở ra một lựa chọn mới cho các cặp vợ chồng trong việc phân chia tài sản. Ngoài việc tài sản chung được phân chia khi ly hôn thì vợ chồng còn có lựa chọn chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (nếu có lý do chính đáng) mà không cần phải chấm dứt mối quan hệ vợ chồng và mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái.

1. Quy định về chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Theo quy định, trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp việc chia tài sản chung này bị vô hiệu; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết. Thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
1.1 Về thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Điều 39 Luật HN&GĐ 2014 quy định về thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân như sau:
- Thời điểm có hiệu lực của việc chia tài sản chung của vợ chồng là thời điểm do vợ chồng thỏa thuận và được ghi trong văn bản; nếu trong văn bản không xác định thời điểm có hiệu lực thì thời điểm có hiệu lực được tính từ ngày lập văn bản.
- Trường hợp tài sản được chia mà theo quy định của pháp luật, giao dịch liên quan đến tài sản đó phải tuân theo hình thức nhất định thì việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực từ thời điểm việc thỏa thuận tuân thủ hình thức mà pháp luật quy định.
- Trường hợp Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng thì việc chia tài sản chung có hiệu lực kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
- Quyền, nghĩa vụ về tài sản giữa vợ, chồng với người thứ ba phát sinh trước thời điểm việc chia tài sản chung có hiệu lực vẫn có giá trị pháp lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
1.2. Về hậu quả của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân
Theo quy định, trường hợp chia tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác. Phần tài sản còn lại không chia vẫn là tài sản chung của vợ chồng.
Bên cạnh đó, theo quy định tại Khoản 3 Điều 14 Nghị định 126/2014/NĐ-CP, từ thời điểm việc chia tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, nếu tài sản có được từ việc khai thác tài sản riêng của vợ, chồng mà không xác định được đó là thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh của vợ, chồng hay là hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng đó thì thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
Lưu ý, việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân không làm chấm dứt chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định.
2. Quy định về chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 41 Luật HN&GĐ 2014, sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung. Việc thỏa thuận phải lập thành văn bản, văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.
Kể từ ngày thỏa thuận nêu trên của vợ chồng có hiệu lực thì việc xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng được thực hiện theo quy định về tài sản chung của vợ chồng (Điều 33 Luật HN&GĐ), quy định về tài sản riêng của vợ, chồng (Điều 43 Luật HN&GĐ). Phần tài sản mà vợ, chồng đã được chia vẫn thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác
Theo quy định, quyền, nghĩa vụ về tài sản phát sinh trước thời điểm chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Trường hợp việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân được thực hiện theo bản án, quyết định có hiệu lực của Tòa án thì thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung phải được Tòa án công nhận.
3. Quy định về chia tài sản trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu
Theo quy định tại Điều 42 Luật HN&GĐ 2014, việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị vô hiệu khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
+ Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
+ Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
- Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng
- Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại
- Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản
- Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức
- Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước
- Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật HN&GĐ, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan
Xem thêm:
Xác định nghĩa vụ chung về vay nợ khi ly hôn
Nguyên tắc giải quyết tài sản khi ly hôn
Mẹ có được chia tài sản sau khi ly hôn?
Lưu ý: Các nội dung tư vấn hoặc văn bản pháp luật được trích dẫn trên có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại. Khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0867.678.066 để được tư vấn hỗ trợ một cách chính xác.
Khách hàng cần tư vấn chi tiết mời liên hệ:
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ DƯƠNG CÔNG
Văn phòng: Số 10 ngõ 40 Trần Vỹ, phường Phú Diễn, TP Hà Nội
Số điện thoại: 0867.678.066
Email: vanphongluatsuduongcong@gmail.com
Facebook: Hỗ trợ pháp lý
Tikok: Lscchannel