Cùng với sự phát triển của truyền thông, quyền hình ảnh của cá nhân ngày càng được đề cao và coi trọng. Vậy pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về vấn đề này? Có những phương thức nào để bảo vệ khi bị xâm phạm? Sau đây, VPLS Dương Công xin được chia sẻ bài viết của tác giả Võ Minh Tuấn – Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5 để Qúy bạn đọc cùng theo dõi:
QUYỀN HÌNH ẢNH CÁ NHÂN THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ PHƯƠNG THỨC BẢO VỆ KHI BỊ XÂM PHẠM
VÕ MINH TUẤN (Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5)
Từ khi có sự xuất hiện của máy ảnh, Internet và sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc bảo vệ quyền về đời sống riêng tư nói chung và quyền đối với hình ảnh của cá nhân nói riêng. Trong phạm vi bài viết, tác giả đề cập đến các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền hình ảnh cá nhân và đề xuất các phương thức bảo vệ quyền hình ảnh cá nhân khi bị xâm phạm.
1. Quy định của pháp luật về quyền hình ảnh của cá nhân
Quyền hình ảnh của cá nhân là quyền nhân thân của cá nhân. Do đó, khi sử dụng hình ảnh của bất cứ ai cũng phải được người đó cho phép và đồng ý. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh được quy định cụ thể tại Điều 32 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015, cụ thể:
“1. Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
2. Việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp sau đây không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ:
a) Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng;
b) Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
3. Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định tại Điều này thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật”.
So với quy định tại Điều 31 BLDS năm 2005, quy định về quyền của cá nhân đối với hình ảnh trong BLDS năm 2015 có nhiều điểm mới, theo đó, nhà làm luật đã xây dựng cơ chế bảo vệ chặt chẽ hơn về quyền của cá nhân đối với hình ảnh của mình, nghĩa là, khi sử dụng hình ảnh của một ai đó, yêu cầu phải có được sự chấp thuận của người có hình ảnh được sử dụng và phải trả thù lao nếu có phát sinh lợi nhuận. Việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ chỉ áp dụng với trường hợp vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đồng hoặc trong các hoạt động công khai công cộng, như: hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh. Ngoài ra, luật cho phép người bị xâm phạm yêu cầu tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh và bồi thường thiệt hại, kể cả với trường hợp sử dụng trái phép cho mục đích phi lợi nhuận. Cụ thể, người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều 592 và một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu.
Quy định như trên, được xem là phù hợp với xu hướng luật pháp quốc tế cũng như văn hóa của người Việt, khích lệ các hành xử nhân văn, nhân ái trong xã hội và bảo vệ tốt hơn quyền đối với hình ảnh của công dân và bảo đảm tính khách quan, có trách nhiệm hơn của các cơ quan báo chí, của cộng đồng mạng xã hội. Hành vi phát tán hình ảnh của cá nhân xâm hại tới danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó. Hành vi này thực hiện bằng cách khi có được hình ảnh của một người nào đó, nhất là hình ảnh thuộc về đời sống riêng tư của cá nhân, hình ảnh có tính chất “nhạy cảm” có thể xuất phát từ động cơ thiếu trong sáng do tư thù hoặc bất kỳ lí do nào họ đã đăng tải trên các phương tiện thông tin, tạo hiệu ứng lan truyền nhanh trong cộng đồng, nhằm mục đích bôi nhọ danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh hoặc chỉ để “trêu đùa”; “khoe khoang” mà không có dụng ý xấu. Và theo quy định của pháp luật, người thực hiện hành vi đó phải chịu trách nhiệm.
Xâm phạm hình ảnh cá nhân còn được thể hiện thông qua việc một số các cơ quan báo chí công bố những hình ảnh được cá nhân thực hiện bảo mật. Hoạt động của báo chí đã xâm phạm quyền nhân thân đối với hình ảnh của cá nhân, sử dụng hình ảnh xâm phạm bí mật cá nhân, đời sống riêng tư. Hành vi này biểu hiện ở việc cá nhân bị phát tán những bức hình, cảnh quay riêng tư, nó thuộc đời sống sinh hoạt riêng tư của một người hoặc mặc dù là những hình ảnh bình thường nhưng cá nhân thực hiện vào việc bảo mật những bức ảnh đó thì việc công bố phát tán những bức ảnh cảnh quay đó, hành vi này là xâm phạm tới bí mật cá nhân, đời sống riêng tư của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ.
Bên cạnh đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 21 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín của mình. Thông tin về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình được pháp luật bảo đảm an toàn”. Ngoài ra, tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013, quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Luật Báo chí được Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 11 thông qua ngày 05/4/2016, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017, thay thế Luật Báo chí ngày 28/12/1989 đã được sửa đổi, bổ sung một số Điều theo Luật số 12/1999/QH10. Mà theo đó, tại khoản 5 Điều 9 của Luật này có quy định cấm “Tiết lộ thông tin thuộc danh Mục bí mật nhà nước, bí mật đời tư của cá nhân và bí mật khác theo quy định của pháp luật”.
Hình ảnh cá nhân là nội dung quyền nhân thân gắn với cá nhân, nó cũng được coi là một trong những thông tin cá nhân của một người. Nếu người nào sử dụng hình ảnh của người khác mà không được sự đồng ý hoặc sử dụng sai mục đích; sử dụng hình ảnh cá nhân của người khác, “chế ảnh”, chia sẻ hình ảnh không đúng sự thật nhằm vu khống, xúc phạm uy tín, danh dự của người khác thì sẽ bị phạt từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng theo điểm e khoản 3 Điều 102 và điểm a khoản 1 Điều 101 Nghị định 15/2020/NĐ-CP ngày 03/02/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử.
Tại điểm i khoản 3 Điều 8 Nghị định 119/2020/NĐ-CP ngày 07/10/2020 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động báo chí, hoạt động xuất bản có quy định: “phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: “Tiết lộ bí mật đời tư của cá nhân nhưng không được sự đồng ý của cá nhân đó”. Đồng thời, điểm c khoản 2 Điều 25 Nghị định này cũng quy định: “phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau: “Sử dụng hình ảnh trẻ em dưới 07 tuổi để minh hoạ trên xuất bản phẩm mà cha mẹ hoặc người giám hộ của trẻ không đồng ý hoặc với trẻ từ đủ 07 tuổi trở lên mà không được chính trẻ, cha mẹ hoặc người giám hộ của trẻ đồng ý”.
Nghị định 144/2021/NĐ-CP ngày 31/12/2021 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng chống bạo lực gia đình (viết tắt Nghị định 144/2021/NĐ-CP). Theo đó, điểm a khoản 3 Điều 7 của Nghị định này quy định: “Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong những hành vi sau đây: a) Có hành vi khiêu khích, trêu ghẹo, xúc phạm, lăng mạ, bôi nhọ danh dự, nhân phẩm của người khác, trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 2 Điều 21 và Điều 54 Nghị định này”.
Điểm b khoản 3 Điều 34 Nghị định 38/2021/NĐ-CP ngày 29/3/2021 của Chính phủ, quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa và quảng cáo quy định: phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với hành vi quảng cáo có sử dụng hình ảnh của cá nhân mà chưa được người đó cho phép trừ trường hợp được pháp luật cho phép.
Việc xâm phạm hình ảnh cá nhân với sự hỗ trợ của các phương tiện hiện đại như: các thiết bị máy quay, máy chụp ảnh hiện đại giúp người ta quay lén, chụp ảnh ở các góc độ đã ghi nhận lại những hình ảnh không đẹp của một số người. Chính điều này làm tăng tính chất nguy hiểm của hành vi xâm phạm hình ảnh đối với xã hội, từ đó hành vi xâm phạm hình ảnh của cá nhân đã không chỉ là xâm phạm tới quan hệ dân sự, quan hệ hành chính nữa mà chuyển sang xâm phạm tới quan hệ được pháp luật hình sự điều chỉnh; một số tội phạm được quy định trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), như: Tội làm nhục người khác (Điều 155); Tội đưa hoặc sử dụng trái phép thông tin mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 288); Tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy (Điều 326); Tội làm nhục đồng đội (Điều 397)…
2. Phương thức bảo vệ quyền hình ảnh cá nhân khi bị xâm phạm
Khi quyền đối với hình ảnh của cá nhân bị xâm phạm thì cá nhân đó có quyền lựa chọn biện pháp bảo vệ phù hợp để giúp cho việc bảo vệ quyền của cá nhân đạt được hiệu quả. Quyền đối với hình ảnh của cá nhân là một trong những quyền nhân thân quan trọng. Khác với các quyền dân sự khác, quyền nhân thân thể hiện trong nhiều lĩnh vực đời sống của cá nhân, đặc biệt có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống tinh thần của cá nhân. Trước hết, nó có tác dụng kịp thời ngăn chặn các hình vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền nhân thân của cá nhân, bảo đảm trật tự pháp lý xã hội và giáo dục ý thức pháp luật làm cho mọi người tôn trọng quyền nhân thân của cá nhân, mặt khác, tạo điều kiện thuận lợi cho các quyền nhân thân được thực hiện trên thực tế, khắc phục những hậu quả của các hành vi vi phạm pháp luật, đặc biệt góp phần bảo đảm đời sống tinh thần cho mỗi cá nhân, tạo điều kiện cho cá nhân lao động và sáng tạo. Tuy vậy, quyền nhân thân mà đặc biệt là quyền về hình ảnh của cá nhân có những đặc điểm khác các quyền dân sự khác như: không thể trị giá được bằng tiền, không thể chuyển giao cho người khác, trừ những trường hợp ngoại lệ do pháp luật quy định,…
Vì vậy, việc bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân trong trường hợp bị xâm phạm có một số khác biệt với việc bảo vệ các quyền dân sự khác như: các biện pháp bảo vệ được áp dụng đa dạng, việc khắc phục thiệt hại trong một số trường hợp phải do chính những người có hành vi xâm phạm đến quyền hình ảnh của cá nhân thực hiện, việc bồi thường thiệt hại, khắc phục thiệt hại không thể tính toán cụ thể, chỉ là tương đối, mang tính giáo dục là chủ yếu,… Ngoài ra, hiệu quả bảo vệ quyền về hình ảnh của cá nhân chịu sự ảnh hưởng rất lớn của cả các quy định pháp luật và điều kiện xã hội. Để nâng cao được hiệu quả bảo vệ quyền về hình ảnh của cá nhân ngoài góc độ pháp lý thì vấn đề này cũng cần được quan tâm nghiên cứu, xem xét kỹ cả dưới góc độ xã hội. Để đảm bảo cho quyền nhân thân nói chung và quyền đối với hình ảnh của cá nhân nói riêng được tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh, thì Điều 25 BLDS năm 2015 quy định như sau:
“Khi quyền nhân thân của cá nhân bị xâm phạm thì người đó có quyền:
1. Tự cải chính;
2. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai;
3. Yêu cầu người vi phạm hoặc yêu cầu cơ quan tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại”.
Theo quy định tại điều luật này thì cá nhân có hình ảnh bị xâm phạm được áp dụng các biện pháp dân sự để bảo vệ quyền dân sự của mình như sau:
Một là, tự mình cải chính: là biện pháp cho phép người có quyền đối với hình ảnh của cá nhân bị xâm phạm kịp thời bảo vệ quyền của mình, hạn chế được hậu quả thiệt hại cả về mặt vật chất và tinh thần do những tin tức sai lệch gây ra.
Hai là, yêu cầu người có vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm: là biện pháp bảo vệ quyền của cá nhân có thể áp dụng trong mọi trường hợp quyền đối với hình ảnh của cá nhân bị xâm phạm. So với biện pháp tự cải chính thì biện pháp này được áp dụng trong một phạm vi rộng hơn. Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp này thông thường chỉ có hiệu quả trong trường hợp người có hành vi xâm phạm quyền đối với hình ảnh của cá nhân sớm nhận thức được hành vi trái pháp luật của mình. Nếu người có hành vi xâm phạm không nhận thức được hành vi trái pháp luật của họ thì người có quyền đối với hình ảnh của cá nhân bị xâm phạm phải áp dụng biện pháp bảo vệ khác mới bảo vệ được quyền lợi của mình.
Ba là, yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm chấm dứt hành vi vi phạm: đây là biện pháp bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân có hiệu quả cao vì sau khi nhận được yêu cầu thì cơ quan, tổ chức có thẩm quyền sẽ áp dụng các biện pháp đủ mạnh do pháp luật quy định buộc người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền đối với hình ảnh của cá nhân chấm dứt hành vi xâm phạm hình ảnh của cá nhân đó. Trên thực tế, biện pháp này thường được người có hình ảnh cá nhân bị xâm phạm áp dụng trong trường hợp đã yêu cầu chấm dứt hành vi trái pháp luật nhưng không được đáp ứng. Trong các cơ quan nhà nước áp dụng biện pháp dân sự thì Tòa án được xem là cơ quan có nhiệm vụ, quyền hạn bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân thông qua việc yêu cầu Tòa án bảo vệ được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ và đòi hỏi người có quyền với hình ảnh bị xâm phạm yêu cầu Tòa án bảo vệ phải chứng minh được quyền đối với hình ảnh của mình bị xâm phạm và hành vi xâm phạm đó trái pháp luật.
Bốn là, yêu cầu người vi phạm bồi thường thiệt hại hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại: đây là biện pháp được thực hiện khi người có hành vi xâm phạm đến quyền về hình ảnh của cá nhân gây ra thiệt hại về vật chất hoặc tinh thần cho họ. Nếu có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền đối với hình ảnh của cá nhân gây ra thiệt hại về vật chất và tinh thần thì cá nhân đó có quyền yêu cầu người có hành vi trái pháp luật bồi thường thiệt hại. Nếu người đó không chịu bồi thường thì cá nhân có hình ảnh bị xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền buộc người vi phạm bồi thường thiệt hại.
Như vậy có thể nhận thấy rằng, bảo vệ quyền nhân thân nói chung và bảo vệ quyền đối với hình ảnh của cá nhân nói riêng có thể được chia thành hai phương thức là: Tự bảo vệ và bảo vệ bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi quyền đối với hình ảnh của cá nhân bị xâm phạm thì cá nhân đó có quyền lựa chọn biện pháp bảo vệ phù hợp để giúp cho việc bảo vệ quyền của cá nhân đạt được hiệu quả. Ngoài các biện pháp bảo vệ theo quy định luật dân sự, pháp luật còn quy định các biện pháp hành chính và biện pháp hình sự khác để bảo vệ quyền về hình ảnh của cá nhân.
Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, sự bùng nổ thông tin của Internet và sự lan truyền qua các mạng xã hội đã mang lại những tiện ích cho cuộc sống của con người trong việc tìm tòi, trao đổi thông tin nhưng cũng đem lại không ít phiền toái, bức xúc cho cá nhân, tổ chức khi có những chủ thể vì ham lợi hay vì mục đích khác đã sử dụng mạng xã hội xâm phạm đến các quyền của cá nhân, tổ chức trong đó có quyền đối với hình ảnh của cá nhân. Do đó, mỗi cá nhân, tổ chức cần phải hiểu rõ các quy định của pháp luật về quyền hình ảnh cá nhân và lựa chọn phương thức bảo vệ khi bị xâm phạm cho phù hợp.
Nguồn bài viết: Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam (https://lsvn.vn/quyen-hinh-anh-ca-nhan-theo-quy-dinh-cua-phap-luat-viet-nam-va-phuong-thuc-bao-ve-khi-bi-xam-pham-1722783981.html)
Khách hàng cần tư vấn chi tiết mời liên hệ:
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ DƯƠNG CÔNG
Văn phòng: Số 10 ngõ 40 Trần Vỹ, phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, Hà Nội
Số điện thoại: 0867.678.066
Email: vanphongluatsuduongcong@gmail.com