Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134 BLHS)

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là trong những tội phạm xảy ra phổ biến trong đời sống xã hội. BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung đối với tội danh này nhằm đáp ứng yêu cầu trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay. Trong bài viết này, VPLS Dương Công sẽ phân tích cụ thể về tội này:

(LSC) Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 134 BLHS)

1. Khái niệm Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác

Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây tổn hại cho sức khỏe người khác dưới dạng thương tích hoặc tổn thương khác.

Thương tích được hiểu là tổn hại cho sức khỏe thể hiện qua dấu vết để lại trên cơ thể con người; tổn thương khác được hiểu là tổn hại

2. Dấu hiệu pháp lí của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác

2.1. Dấu hiệu mặt khách quan của tội phạm

– Hành vi khách quan

Hành vi khách của tội phạm này được quy định là hành vi gây thương tích hoặc hành vi gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác. Đó là các hành vi có khả năng gây ra thương tích hoặc tổn thương khác làm tổn hại đến sức khoẻ của con người. Những hành vi này có thể được thực hiện với công cụ, phương tiện phạm tội hoặc không có công cụ, phương tiện phạm tội hoặc có thể thông qua súc vật hay cơ thể người khác…

– Hậu quả của tội phạm

Hậu quả mà CTTP mô tả là thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ ở mức độ có tỉ lệ tổn thương cơ thể là 11% trở lên hoặc dưới tỉ lệ đó nhưng thuộc một trong các trường hợp sau:

– Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người

Vũ khí bao gồm: vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thô sơ (dao găm, kiếm, giáo, mác, thương, lưỡi lê, đao, mã tấu, côn, quả đấm, quả chùy, cung, nỏ, phi tiêu.), vũ khí thể thao và vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự (được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, không theo tiêu chuẩn kĩ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, có khả năng gây sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khoẻ của con người, phá hủy kết cấu vật chất tương tự như vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí thô sơ, vũ khí thể thao). (Xem thêm: Điều 3 Luật quản lí, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017)

Vật liệu nổ bao gồm: Thuốc nổ và phụ kiện nổ (kíp nổ, dây nổ, dây cháy chậm, mồi nổ, …) (Xem thêm: Điều 3 Luật quản lí, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017)

Hung khí nguy hiểm là công cụ phạm tội có tính nguy hiểm cho con người cao hơn các công cụ phạm tội thông thường nhưng không phải là vũ khí, vật liệu nổ như xà beng, búa tạ… Thủ đoạn gây nguy hại cho nhiều người là thủ đoạn có khả năng gây ra gây thương tích hoặc tổn hại không chỉ cho một người mà cho nhiều người như thủ đoạn bỏ hoá chất gây ngộ độc vào thức ăn chung của gia đình…

– Dùng a-xít nguy hiểm hoặc hoá chất nguy hiểm

A-xít nguy hiểm là các a-xít có khả năng gây tổn thương cho các bộ phận cơ thể người khi có sự tiếp xúc giữa a-xít này với cơ thể người. Hoá chất nguy hiểm được nêu ở đây là hoá chất bất kì nhưng không phải là a-xít có khả năng gây tổn hại cho sức khoẻ của con người.

– Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người không có khả năng tự vệ;

– Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy giáo, cô giáo của mình, người nuôi dưỡng, chữa bệnh cho mình; 

– Có tổ chức;

– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

– Trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc đang chấp hành biện pháp xử lí vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện bắt buộc;

– Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác ảo được thuê;

– Có tính chất côn đồ; 

– Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lí do công vụ của nạn nhân.

Như vậy, những trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ có tỉ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% và không thuộc các trường hợp nêu trên là trường hợp chưa cấu thành tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác.

– QHNQ giữa hành vi và hậu quả thương tích hoặc tổn thương khác

QHNQ giữa hành vi và hậu quả thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ là dấu hiệu trong CTTP. Khi xác định có hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ và có hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn hại cho sức khoẻ, đòi hỏi phải xác định hậu quả này là do chính hành vi đó gây ra hay nói cách khác là phải xác định QHNQ giữa hành vi khách quan đã thực hiện và hậu quả thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ đã xảy ra.

2.2. Dấu hiệu mặt chủ quan của tội phạm

Lỗi của người phạm tội là lỗi cố ý, có thể là lỗi cố ý trực tiếp hoặc là lỗi cố ý gián tiếp. Người phạm tội có thể mong muốn hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn hại cho sức khoẻ nhưng cũng có thể chỉ chấp nhận các hậu quả này.

3. Hình phạt của Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác

Điều luật quy định 05 khung hình phạt chính và 01 khung hình phạt cho chuẩn bị phạm tội.

3.1. Khung hình phạt cơ bản.

Khung hình phạt cơ bản có mức phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

3.2. Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất

Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất có mức phạt tù từ 02 năm đến 06 năm được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỉ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30%;

– Phạm tội 2 lần trở lên;

– Tái phạm nguy hiểm; 

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 (vì một trong những tình tiết này mà hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ có tỉ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% vẫn phải chịu TNHS).

3.3. Khung hình phạt tăng nặng thứ hai

Khung hình phạt tăng nặng thứ hai có mức phạt tù từ 05 năm đến 10 năm được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác có tỉ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên (nếu không thuộc trường hợp được quy định tại điểm b khoản 4);

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỉ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỉ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 (vì một trong những tình tiết này mà hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ có tỉ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% vẫn phải chịu TNHS);

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỉ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 11% đến 30% nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 (vì một trong những tình tiết này mà hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ có tỉ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% vẫn phải chịu TNHS).

3.4. Khung hình phạt tăng nặng thứ ba

Khung hình phạt tăng nặng thứ ba có mức phạt tù từ 07 năm đến 14 năm được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:

– (Phạm tội) làm chết người: Đây là trường hợp phạm tội đã gây ra hậu quả chết người. Trong đó, người phạm tội chỉ cố ý đối với việc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân còn đối với hậu quả chết người do hành vi của họ gây ra, lỗi của người phạm tội chỉ là lỗi vô ý. 

“Thương tích dẫn đến chết người trước hết là thương tích nặng làm cho nạn nhân chết vì thương tích nặng này, nghĩa là giữa thương tích và cái chết của nạn nhân có mối QHNQ. Thí dụ: Đâm vào hông nạn nhân làm nạn nhân bị đứt tĩnh mạch hông và do bị mất nhiều máu nên nạn nhân chết. Cũng coi là cố ý gây thương tích dẫn đến chết người trường hợp gây thương tích không phải là thương tích nặng nhưng vì nạn nhân là người quá già yếu, có bệnh nặng, việc gây thương tích làm cho bị chết sớm hơn, nếu không bị gây thương tích thì nạn nhân chưa chết”. (Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 19/4/1989 của Hội đồng thẩm phán TANDTC.

– Gây thương tích làm biến dạng vùng mặt của người khác mà tỉ lệ tổn thương cơ thể là 61% trở lên;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỉ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người là 61% trở lên.

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác mà tỉ lệ tổn thương cơ thể là 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp được quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm a khoản 1 (vì một trong những tình tiết này mà hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ có tỉ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% vẫn phải chịu TNHS).

Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỉ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60% nhưng có một trong các tình tiết được quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 (vì một trong những tình tiết này mà hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ có tỉ lệ tổn thương dưới 11% vẫn phải chịu TNHS).

3.5. Khung hình phạt tăng nặng thứ tư

Khung hình phạt tăng nặng thứ tư có mức phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân được quy định cho trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết định khung hình phạt tăng nặng sau:

– Làm chết 02 người trở lên;

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỉ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người là 61% trở lên nhưng có một trong các tình tiết được quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 (vì một trong những tình tiết này mà hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ có tỉ lệ tổn thương dưới 11% vẫn phải chịu TNHS).

– Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của 02 người trở lên mà tỉ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người là 61% trở lên nhưng có một trong các tình tiết được quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 (vì một trong những tình tiết này mà hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ có tỉ lệ tổn thương dưới 11% vẫn phải chịu TNHS).

Đọc thêm:

– Tội đe dọa giết người (Điều 133BLHS)

– Trao đổi về tình tiết “có tính chất côn đồ” quy định tại điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự

Tội vu khống (Điều 156 BLHS)


Lưu ý: Các nội dung tư vấn hoặc văn bản pháp luật được trích dẫn trên có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại. Khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0867.678.066 để được tư vấn hỗ trợ một cách chính xác.


Khách hàng cần tư vấn chi tiết mời liên hệ:
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ DƯƠNG CÔNG
Văn phòng: Số 10 ngõ 40 Trần Vỹ, phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, Hà Nội
Số điện thoại: 0867.678.066
Email: vanphongluatsuduongcong@gmail.com

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *