Tội tổ chức đánh bạc (Điều 321 BLHS)

Người phạm tội tổ chức đánh bạc, gá bạc là người có hành vi tổ chức cho người khác thực hiện hành vi đánh bạc trái phép, thông qua các hành vi khách quan như lôi kéo, rủ rê hoặc tạo điều kiện cơ sở vật chất cần thiết cho việc thực hiện hành vi phạm tội hoặc hành vi vi phạm pháp luật. Dưới đây là các dấu hiệu pháp lý của tội phạm này.

tội tổ chức đánh bạc, vpls dương công

“Điều 322. Tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc

1. Người nào tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc trái phép thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 300.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

b) Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên;

d) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;

đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này hoặc hành vi quy định tại Điều 321 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về tội này hoặc tội quy định tại Điều 321 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 10 năm:

a) Có tính chất chuyên nghiệp;

b) Thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên;

c) Sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội;

d) Tái phạm nguy hiểm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

1. Mặt khách quan của tội phạm

Hành vi khách quan:

  • Đối với tội tổ chức đánh bạc: có hành vi tập hợp, rủ rê, lôi kéo nhiều người (từ hai người trở lên) tham gia vào việc đánh bạc được thua bằng tiền, tài sản hoặc hiện vật dưới các hình thức như: lô, đề, cá độ bóng đá, đá gà, xóc đĩa, đánh bài, đánh cờ… Thông thường người đứng ra tổ chức có sự chuẩn bị, bàn bạc, sắp xếp kế hoạch đánh bạc rồi mới tập hợp, rủ rê những người khác tham gia.
  • Đối với tội gá bạc: thể hiện ở hành vi tạo điều kiện về địa điểm cho việc đánh bạc, tức là có hành vi cho thuê, cho mượn hoặc đi thuê, mượn địa điểm (có thể là nhà ở, phòng làm việc, cơ sở kinh doanh…), phương tiện (xe, tàu…) để cho người khác sử dụng làm nơi tụ tập đánh bạc. Bản chất của gá bạc là mục đích trục lợi qua con bạc thông qua việc lấy tiền vào cửa, mua bán tài sản của con bạc với giá rẻ, kinh doanh các dịch vụ ăn uống,…. Hành vi gá bạc cũng là một biểu hiện của hành vi tổ chức đánh bạc và do vậy, hành vi gá bạc được nói đến khi người có hành vi đó không phải là người có hành vi tổ chức đánh bạc.
  • Cũng như tội đánh bạc, hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi đó là hành vi trái phép, tức không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép nhưng thực hiện không đúng với quy định trong giấy phép được cấp. Đối với hành vi tổ chức đánh bạc đã được cấp phép thì không bị coi là vi phạm pháp luật.
  • Hai hành vi trên chỉ cấu thành tội phạm nếu thoả mãn dấu hiệu về quy mô tổ chức, hoặc có yếu tố đã bị xử phạt hành chính, chưa xóa án tích. Cụ thể có 5 dạng hành vi như sau (tương ứng với khoản 1 Điều 322 BLHS):

a) Tổ chức cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc tổ chức 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

b) Sử dụng địa điểm thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý của mình để cho 10 người đánh bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên hoặc cho 02 chiếu bạc trở lên trong cùng một lúc mà tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trị giá 5.000.000 đồng trở lên;

c) Tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá 20.000.000 đồng trở lên;

d) Có tổ chức nơi cầm cố tài sản cho người tham gia đánh bạc; có lắp đặt trang thiết bị phục vụ cho việc đánh bạc hoặc phân công người canh gác, người phục vụ khi đánh bạc; sắp đặt lối thoát khi bị vây bắt, sử dụng phương tiện để trợ giúp cho việc đánh bạc;

đ) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi tổ chức đánh bạc, gá bạc nêu trên hoặc hành vi đánh bạc quy định tại Điều 321 BLHS (Tội Đánh bạc) hoặc đã bị kết án về tội tổ chức đánh bạc, gá bạc hoặc tội đánh bạc, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.

Hậu quả:

  • Cũng như tội đánh bạc, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Chỉ cần người phạm tội có hành vi tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc thỏa mãn dấu hiệu khách quan được quy định trong điều luật thì đã cấu thành tội phạm.

2. Khách thể của tội phạm

Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội được Bộ luật Hình sự xác lập và bảo vệ, bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại trong một chừng mực nhất định.

3. Mặt chủ quan của tội phạm

Mặt chủ quan của cấu thành tội phạm gồm các nội dung như lỗi, động cơ và mục đích phạm tội.

Tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, bên cạnh dấu hiệu về lỗi là người phạm tội cố ý thực hiện hành vi phạm tội, mà còn có các dấu hiệu động cơ là sát phạt nhau, mục đích là vụ lợi. Do đó các yếu tố bao gồm lỗi, động cơ và mục đích phạm tội đều đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh mặt chủ quan của các tội về đánh bạc.

  • Trong tội đánh bạc, tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc, người thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Như vậy, người phạm tội nhận thức rõ sự nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra, bị pháp luật hình sự cấm, nhận thức được tính chất xâm phạm tới trật tự công cộng nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó.
  • Động cơ của người phạm các tội về đánh bạc là nhằm sát phạt nhau để thu lợi ích về vật chất (bằng tiền hoặc hiện vật) thông qua hành vi đánh bạc hay tổ chức đánh bạc hoặc dùng địa điểm do mình sở hữu, quản lý, sử dụng cho người khác đánh bạc. Với tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc tuy động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc, nhưng đối với hành vi gá bạc thì động cơ thu lợi là dấu hiệu bắt buộc. Người phạm tội gá bạc gắn liền với việc cho người đánh bạc sử dụng địa điểm của mình với mong muốn để thu lợi. Trên thực tế thì việc thu lợi này thường được thể hiện qua việc thu tiền thuê địa điểm của những người đánh bạc, bên cạnh đó việc thu lợi còn được thông qua hoạt động như: Bán đồ ăn, cho vay tiền lấy lãi suất cao, dịch vụ cầm đồ…
  • Người phạm tội đánh bạc khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật đều hướng đến mục đích tư lợi, để thu những giá trị về vật chất nhất định.

4. Chủ thể của tội phạm

Chủ thể của tội đánh bạc và tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc là người phải có đầy đủ năng lực TNHS và đạt độ tuổi chịu TNHS vào thời điểm phạm tội. Cụ thể, đối với trường hợp từ đủ 16 tuổi trở lên thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Nếu người thực hiện hành vi từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi thì chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.


Xem thêm:

Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự (Điều 201 BLHS)

Tội trộm cắp tài sản (Điều 173 Bộ luật Hình sự)

Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 174 BLHS 2015


Lưu ý: Các nội dung tư vấn hoặc văn bản pháp luật được trích dẫn trên có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại. Khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0867.678.066 để được tư vấn hỗ trợ một cách chính xác.


Khách hàng cần tư vấn chi tiết mời liên hệ:
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ DƯƠNG CÔNG
Văn phòng: Số 10 ngõ 40 Trần Vỹ, phường Mai Dịch, quận Cầu Giấy, Hà Nội
Số điện thoại: 0867.678.066
Email: vanphongluatsuduongcong@gmail.com

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *