Trong tố tụng hình sự, không phải mọi hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật đều bị khởi tố để điều tra, truy cứu trách nhiệm hình sự. Pháp luật quy định rõ những trường hợp không khởi tố vụ án hình sự nhằm bảo đảm việc xử lý đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và tránh oan sai. Việc xác định các trường hợp này có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn đầu của quá trình tố tụng, góp phần bảo vệ quyền con người và thể hiện nguyên tắc thận trọng trong hoạt động điều tra, truy tố.

1. Theo quy định tại Điều 157. Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự Bộ luật tố tụng hình sự 2015, bao gồm:
– Không có sự việc phạm tội;
Sau khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành xác minh thì kết luận thông tin về tội phạm là không chính xác, không có sự việc xảy ra như thông tin tiếp nhận hoặc có sự việc xảy ra nhưng không có dấu hiệu của tội phạm.
– Hành vi không cấu thành tội phạm;
Cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu hiệu pháp lý đặc trưng cho mỗi tội phạm, đây là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự. Hành vi không cấu thành tội phạm là hành vi không thỏa mãn các dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS. Ví dụ: hành vi trộm cắp nhưng giá trị tài sản trộm cắp chưa đạt đến mức quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự để cấu thành tội phạm.
– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự;
Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015 thì người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự cho một số tội như: giết người, hiếp dâm, cướp tài sản…
– Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật;
Theo nguyên tắc không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm nên khi tội phạm đã được đem ra xét xử và có bản án thì cơ quan có thẩm quyền không được tiến hành khởi tố vụ án hình sự lần 2.
– Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự;
Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự được hiểu là thời hạn mà phải luật quy định được phép truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội danh cụ thể nên khi hết thời hạn đó thì người phạm tội không bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa. Thời hiệu truy cứu này được quy định tại Điều 27 BLHS năm 2015, cụ thể:
+ 05 năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
+ 10 năm đối với tội phạm nghiêm trọng;
+ 15 năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
+ 20 năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
– Tội phạm đã được đại xá;
Đại xá là một biện pháp khoan hồng đặc biệt của Nhà nước, được Quốc Hội ra quyết định vào những dịp có sự kiện quan trọng của đất nước. Nội dung của đại xá chính là tha tội hoàn toàn cho một số loại tội phạm nhất định với hàng loạt người phạm tội. Những hành vi phạm tội được đại xá thì không được khởi tố vụ án hình sự. Nếu vụ án đang trong quá trình khởi tố, điều tra, xét xử sẽ được đình chỉ.
– Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác;
Mục đích của việc khởi tố vụ án là tìm ra sự thật về hành vi phạm tội, nhằm giáo dục người vi phạm ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Nên khi người phạm tội đã chết, trừ trường hợp cần tái thẩm đối với người khác, thì mục đích của việc khởi tố không còn nữa.
– Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.
Theo quy định tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự thì: Một số tội sau chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết bao gồm:
+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
+ Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
+ Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
+ Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính
+ Tội hiếp dâm
+ Tội cưỡng dâm
+ Tội làm nhục người khác
+ Tội vu khống
2. Theo quy định tại Điều 158. Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự:
– Khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 157 của Bộ luật này thì người có quyền khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự; nếu đã khởi tố thì phải ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự và thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố biết rõ lý do; nếu xét thấy cần xử lý bằng biện pháp khác thì chuyển hồ sơ cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết.
Quyết định không khởi tố vụ án hình sự, quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu có liên quan phải gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định.
– Cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác hoặc báo tin về tội phạm có quyền khiếu nại quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Thẩm quyền và thủ tục giải quyết khiếu nại được thực hiện theo quy định tại Chương XXXIII của Bộ luật này.hướng dẫn.
Xem thêm: Các tội danh chỉ khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu người bị hại
Quy trình giải quyết một vụ án hình sự hiện nay như thế nào
Khi nào Luật sư được tham gia vụ án hình sự?
Lưu ý: Các nội dung tư vấn hoặc văn bản pháp luật được trích dẫn trên có thể đã thay đổi hoặc hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại. Khách hàng vui lòng liên hệ với chúng tôi qua số điện thoại: 0867.678.066 để được tư vấn hỗ trợ một cách chính xác.
Khách hàng cần tư vấn chi tiết mời liên hệ:
VĂN PHÒNG LUẬT SƯ DƯƠNG CÔNG
Văn phòng: Số 10 ngõ 40 Trần Vỹ, phường Phú Diễn, TP Hà Nội
Số điện thoại: 0867.678.066
Email: vanphongluatsuduongcong@gmail.com
Facebook: Hỗ trợ pháp lý
Tikok: Lscchannel
